Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 29/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27/8/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 66/2021/TLST-HNGĐ ngày 30/6/2021về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 18/2021/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm 1986.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh T.

B đơn: Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1984.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh T.

(Chị Trần Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Văn T1 vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, quá trình giải quyết vụ án, chị Trần Thị N trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T1 tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 11 tháng 10 năm 2005 tại UBND xã V, thành phố T, tỉnh T. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T1 cờ bạc, ngoại tình, đánh vợ. Hai bên gia đình đã hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2011, không còn quan tâm đến nhau. Đến nay chị N xác định không còn tình cảm với anh T1, không thể đoàn tụ để tiếp tục chung sống với nhau được nên đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn T1.

Về con chung: Chị và anh T1 có ba con chung là Nguyễn Minh Đ sinh ngày 31/8/2006, Nguyễn Thị PA sinh ngày 20/3/2008 và Nguyễn Thị Phương L sinh ngày 11/6/2011. Hiện nay cả ba con đang sống cùng chị N. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng ba con chung, không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị N đang là chủ cơ sở xoa bóp, bấm huyệt và trị liệu theo phương pháp cổ truyền, thu nhập bình quân khoảng 15.000.000 đồng/tháng (mười lăm triệu đồng một tháng).

Về quan hệ tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, anh Nguyễn Văn T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến làm việc theo các giấy báo của Tòa án.

Bà Trần Thị O, sinh năm 1947, cư trú tại: Thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh T (là mẹ đẻ anh Nguyễn Văn T1) cho biết: Sau khi kết hôn, chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T1 chung sống cùng gia đình bà tại thôn N, xã V, thành phố T. Vợ chồng chị N, anh T1 chung sống hạnh phúc đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, từ đó sống ly thân với nhau, mâu thuẫn cụ thể như thế nào thì bà không biết. Chị N về nhà mẹ đẻ sinh sống, anh T1 đi làm ở tỉnh ngoài, bà không biết địa chỉ cụ thể nhưng anh T1 thường xuyên liên lạc với bà bằng điện thoại và thỉnh thoảng có về nhà. Bà đã thông báo cho anh T1 về việc Tòa án thụ lý đơn xin ly hôn của chị N và nội dung các văn bản Tòa án gửi về, quan điểm của anh T1 là đồng ý ly hôn với chị N, đồng ý để chị N trực tiếp nuôi dưỡng ba con chung, không đóng góp cấp dưỡng nuôi con, vì tình hình dịch bệnh nên anh T1 không đến Tòa án làm việc được, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt. Về tài sản: Chị N không yêu cầu giải quyết nên anh T1 không có ý kiến gì.

Đại diện chính quyền địa phương nơi chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T1 đăng ký hộ khẩu thường trú cung cấp nội dung như sau: Chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T1 có đăng ký kết hôn tại UBND xã V và cùng đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn N1, xã V, thành phố T, tỉnh T. Sau khi kết hôn, chị N và anh T1 chung sống ở thôn N1, xã V. Quá trình chung sống vợ chồng có ba con chung, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn và đã sống ly thân từ lâu nhưng cụ thể vì lý do gì thì địa phương không nắm được do gia đình không báo cáo. Quan điểm của địa phương là chị N và anh T1 ly thân đã lâu nên không còn khả năng đoàn tụ, đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh chị và theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn T1, về con chung: giao 03 con chung Nguyễn Minh Đ, Nguyễn Thị PA, Nguyễn Thị Phương L cho chị Trần Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng không đặt ra giải quyết, về tài sản chung, nợ chung: không đặt ra giải quyết. Chị Trần Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Chị Trần Thị N khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Văn T1 có hộ khẩu thường trú tại xã V, thành phố Thái Bình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân thành phố Thái Bình tham gia phiên tòa là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Nguyên đơn chị Trần Thị N có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án:

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T1 tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn vào ngày 11 tháng 10 năm 2005 tại UBND xã V, thành phố T, tỉnh T là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, theo chị N trình bày nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T1 cờ bạc, ngoại tình, đánh vợ. Chị N và anh T1 đã sống ly thân từ năm 2011, mỗi người sống một nơi không quan tâm đến nhau, đời sống vợ chồng trên thực tế không tồn tại. Khi biết chị N xin ly hôn, anh T1 không về gặp gỡ hay liên lạc với chị N để hòa giải, đồng thời cũng không làm việc với Tòa án theo giấy báo, điều này thể hiện thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến hạnh phúc gia đình, chứng tỏ tình cảm giữa anh chị không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị N, xử cho chị N được ly hôn anh T1 là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về quan hệ con chung: Chị Trần Thị N và anh Nguyễn Văn T1 có ba con chung là Nguyễn Minh Đ sinh ngày 31/8/2006, Nguyễn Thị PA sinh ngày 20/3/2008 và Nguyễn Thị Phương L sinh ngày 11/6/2011, hiện nay con chung đang sống cùng chị N. Xét điều kiện thực tế hiện nay, chị N có thu nhập, có chỗ ở ổn định để nuôi con, xét nguyện vọng của các con và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình nên giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cả ba con chung là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chị N không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng cho con nên không đặt ra giải quyết. Anh Nguyễn Văn T1 có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Thị N không yêu cầu giải quyết, Tòa án không ghi được lời khai của anh Nguyễn Văn T1, do vậy về quan hệ tài sản không giải quyết trong vụ án này.

[7] Về án phí: Chị Trần Thị N phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 147, Điều 203, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn T1.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Trần Thị N trực tiếp nuôi dưỡng ba con chung là Nguyễn Minh Đ sinh ngày 31/8/2006, Nguyễn Thị PA sinh ngày 20/3/2008 và Nguyễn Thị Phương L sinh ngày 11/6/2011, việc cấp dưỡng cho con không đặt ra giải quyết vì chị N không yêu cầu.

Anh Nguyễn Văn T1 có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Chị N, anh T1 có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng cho con khi cần thiết.

3. Về quan hệ tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị N đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000234 ngày 30/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình thành án phí.

Chị Trần Thị N, anh Nguyễn Văn T1 vắng mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;