Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 27/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 22/12/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình thụ lý số 58/2021/TLST- HNGĐ ngày 14/4/2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90 /2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 /11/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Chu Văn  D, sinh năm 1986; (có mặt tại phiên tòa); HKTT: thôn Như Nguyệt, xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

2. Bị đơn: Chị Đỗ Thị H, sinh năm 1987; (có mặt tại phiên tòa);

HKTT: thôn Như Nguyệt, xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

3. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

a. Ông Chu Văn H, sinh năm 1961, bà Phan Thị P, sinh năm 1963.

Cùng trú tại: thôn Như Nguyệt, xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. (Ông H, bà Hương ủy quyền cho anh  D).

b. Chị Đỗ Thị L, sinh năm 1983; (có mặt tại phiên tòa);

c. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1975; (có mặt tại phiên tòa);

d. Bà Ngô Thị T, sinh năm 1959; (có mặt tại phiên tòa);

Đều trú tại: thôn Như Nguyệt, xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Chu Văn  D trình bày: anh kết hôn với chị Đỗ Thị H, sinh năm 1987 vào năm 2006, trước khi kết hôn đôi bên có được tìm hiểu thỏa thuận tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, sau khi kết hôn chị Hòa về làm dâu gia đình luôn, vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 12/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Hòa có những lời nói không đúng mực với anh và bố mẹ anh. Ngoài ra, vợ chồng không có mâu thuẫn gì khác, vợ chồng sống ly thân nhau và cắt đứt mọi quan hệ từ đầu năm 2021 đến nay không ai quan T tới ai, nay anh cảm thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án cho anh  D được ly hôn chị Hòa.

Về con chung: vợ chồng có 03 con chung là chá Chu H Đăng, sinh ngày 10/11/2007, cháu Chu Thị Kim Oanh, sinh ngày 09/5/2012 và cháu Chu Tấn Sang, sinh ngày 14/8/2014, hiện nay các cháu Oanh và Sang đang ở cùng chị Hòa, cháu Đăng đang ở cùng anh. Nay ly hôn, anh xin được nuôi dưỡng cả 3 con chung không yêu cầu chị Hòa pH góp phí tổn nuôi con. Hiện nay thu nhập của anh khoảng 3.000.000đ/tháng. Không yêu cầu chị Hòa pH cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Vợ chồng có 01 ngôi nhà 01 tầng, diện tích là 90m2 nằm trên thửa đất hơn 210m2 đất tại thôn Như Nguyệt, xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, đất là của bố mẹ anh là ông Chu Văn H, bà Phan Thị P, nguồn gốc đất là do ông H bà Hương mua, nguồn kinh phí cũng do ông H bà Hương tự có.

Ngoài ra vợ chồng còn có 01 máy giặt; 01 máy điều hòa loại Samsung; 01 tivi Samsung; 01 tủ lạnh; 01 bình nóng lạnh; 01 bộ bàn ghế; 01 bàn thờ; 01 bộ máy cưa; 01 máy lọc nước; và 02 chiếc xe máy tôi không yêu cầu chia. Riêng máy cưa anh  D mượn của em trai là Chu Văn Mạnh. Nay ly hôn anh không yêu cầu Tòa án phân chia mà để vợ chồng anh thỏa thuận với nhau.

Tại biên bản hòa giải ngày 19/10/2021 anh  D không đồng ý với chiếc máy cưa và máy bào vì chiếc máy cưa, máy bào trên là của anh Chu Văn Mạnh em trai anh và yêu cầu định giá chiếc xe Alpha, xong tại lời khai ngày 21/10/2021 anh  D thay đổi và xác định chiếc máy cưa và máy bào là của vợ chồng chứ không pH là của anh Chu Văn Mạnh, và anh  D cũng không yêu cầu định giá chiếc xe Alpha nữa.

Về công nợ: anh đồng ý trả số nợ 34.000.000đ với bà Ngô Thị T là nợ chung của vợ chồng, còn đối với số nợ của chị H và chị L thì anh không đồng ý trả bởi anh không vay của chị L, chị H.

Chứng cứ mà nguyên đơn đưa ra để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình gồm: Đơn xin ly hôn; Trích lục kết hôn (bản sao); giấy khai sinh của con (bản sao); Chứng minh thư nhân dân (bản sao); Sổ hộ khẩu (bản sao) Tại buổi tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải hôm nay anh không cung cấp chứng cứ tài liệu gì khác.

Về phía bị đơn là chị Đỗ Thị H trình bày: Về thời gian và điều kiện chị kết hôn cùng anh  D theo như anh  D trình bày là đúng. Vợ chồng sống hòa thuận đến ngày 09/12/2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh  D có quan hệ với người phụ nữ tên là Ngô Thị Liệu, sinh năm 1989 ở thôn Ngô Nội, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, chị có chứng kiến việc anh  D và chị Liệu tại bệnh viện nói với nhau là vợ chồng, anh  D còn nói với chị là anh  D đã có vợ hai rồi chị muốn đi với ai thì đi, ngoài ra anh  D còn đánh chửi chị. Vợ chồng sống ly thân nhau từ tháng 12/2020 đến nay không ai quan T tới ai, nay anh  D có đơn xin ly hôn chị không đồng ý, vì các con còn nhỏ.

Về con chung: vợ chồng có 03 con chung về tên tuổi ngày tháng năm sinh của các con như anh  D trình bày là đúng, hiện nay các cháu đang ở cùng chị. Nay nếu pH ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi dưỡng cả 03 con chung và yêu cầu anh  D pH góp phí tổn nuôi con mỗi cháu 1.000.000đ/tháng/cháu đến khi các cháu trưởng thành.

Về tài sản: vợ chồng có 01 ngôi nhà 02 tầng, diện tích là 93m2/tầng nằm trên thửa đất là hơn 200m2 đất tại thôn Như Nguyệt, xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, đất là của bố mẹ anh  D là ông Chu Văn H bà Phan Thị P, giấy chứng nhận mang tên ông H bà P, nguồn kinh phí mua đất là do ông H, bà P tự có mà mua.

Ngoài ra vợ chồng còn có 01 máy giặt; 01 máy điều hòa loại Samsung; 01 ti vi Samsung; 01 tủ lạnh; 01 bình nóng lạnh; 01 bộ bàn ghế; 01 bộ bàn thờ; 01 bộ máy cưa;

01 máy lọt nước; riêng 02 chiếc xe máy nay chị không yêu cầu chia.

Nay ly hôn chị yêu cầu chia đôi ngôi nhà 02 tầng, và một số đồ dùng sinh hoạt như chị đã trình bày.

Về công nợ: Chị đồng ý về số nợ của chị L chị H, chị không đồng ý với khoản vay của bà T vì khoản vay trên chị đã ghi vào giấy vay nợ của bà T là chị không liên quan gì đến mà do anh  D pH chịu trách nhiệm trả cho bà T, riêng số tiền chị vay của chị H là chị vay về trả nợ cho anh  D tại Ngân hàng VPBank, đối với khoản vay của chị L, chị vay để chuộc lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà P với số tiền là 250.000.000đ.

Chị L trình bày: vào ngày 07/9/2020 chị có cho anh  D, chị Hòa vay số tiền là 120.000.000đ, khi vay đôi bên không làm giấy vay mượn, chị Hòa anh  D vay là để trả nợ cho Ngân hàng để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H bà P, khi vay chị không yêu cầu anh  D chị Hòa pH trả lãi suất. nay anh  D chị Hòa ly hôn chị yêu cầu anh  D chị Hòa pH trả cho chị số tiền trên là tiền gốc không yêu cầu lãi suất.

Chị H trình bày: vào ngày 15/11/2018 chị có cho anh  D, chị Hòa vay số tiền 50.000.000đ, khi vay đôi bên có làm giấy tờ vay mượn, sau anh  D chị Hòa đã trả cho chị 02 lần với tổng số tiền trả được là 10.000.000đ, nay anh  D chị Hòa ly hôn chị yêu cầu anh  D chị Hòa pH trả cho chị số tiền còn lại là 40.000.000đ không yêu cầu lãi.

Bà T trình bày: bà yêu cầu anh  D pH trả cho bà số tiền 34.000.000đ không yêu cầu lãi suất.

Bà P, ông H trình bày: bà P, ông H xác nhận ngôi nhà 02 tầng xây trên diện tích đất của ông bà là do vợ chồng anh  D chị Hòa xây dựng, nay anh  D chị Hòa ly hôn ông bà đề nghị tài sản của anh  D chị Hòa thì anh  D chị Hòa tự phân chia với nhau còn diện tích đất là của ông bà, ông bà không đồng ý chia cho anh  D chị Hòa, vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông bà, riêng số nợ theo như chị Hòa trình bày là chị vay của một số người để chị Hòa chuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông bà, việc này thì ông bà không biết chị Hòa anh  D vay mượn của những ai thì anh  D chị Hòa pH chịu trách nhiệm chứ ông bà không có liên quan gì tới việc vay mượn như chị Hòa trình bày tại Tòa. Nay do công việc nên ông bà P, H ủy quyền cho anh  D.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải để các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ kiện, xong các đương sự không thể thống nhất thỏa thuận giải quyết toàn vụ vụ kiện được, nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên toà anh  D trình bày: anh vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn chị Hòa, bởi lẽ anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn không thể chung sống cùng nhau được nên an xin được ly hôn chị Hòa, còn về con chung vợ chồng 03 con chung nay ly hôn anh xin nuôi cả 03 con chung không yêu cầu chị Hòa pH góp phí tổn nuôi con, hiện anh đang làm nghề buôn bán gỗ tự do, thu nhập 10.000.000đ/ tháng anh đủ khả năng để nuôi dưỡng các cháu.

Về tài sản: vợ chồng có 01 ngôi nhà khoảng 90 m2 xây dựng trên đất của bố mẹ anh là ông H, bà P, ngoài ra vợ chồng còn có một số đồ dùng vật dụng như tivi, tủ lạnh, bàn ghế, bộ máy cưa, bình nóng lạnh, bàn thờ và xe máy, điều hòa, máy giặt nay anh đề nghị chia đôi mỗi người ½ số tài sản trên, anh xin lấy bằng hiện vật, riêng chiếc xe máy anh đồng ý để cho chị Hòa sử dụng vì đăng ký mang tên chị Hòa. Về công nợ anh chỉ đồng ý trả cho bà T còn lại của chị L, chị H anh không vay và không được sử dụng số tiền trên nên anh không chịu trách nhiệm, ai vay người đó pH chịu trách nhiệm trả cho chị L, chị H.

Chị Hòa trình bày: chị xác nhận lời trình bày của anh  D tại phiên tòa về thời gian kết hôn còn mâu thuẫn vợ chồng là không chính xác bởi lẽ anh  D có quan hệ với người phụ nữ khác và chơi bời nay anh  D xin ly hôn chị không đồng ý, mặc dù từ khi vợ chồng ly thân và cắt đứt quan hệ đến nay không ai quan T tới ai, xong chị nghĩ vì các con còn nhỏ cần có sự chăm sóc giáo dục cả bố lẫn mẹ thì sẽ tốt hơn.

Còn nếu pH ly hôn chị tôn trọng nguyện vọng của các cháu do vậy chị xin được nuôi dưỡng cả 03 con chung yêu cầu anh  D pH góp phí tổn nuôi con cho chị mỗi tháng mỗi cháu là 1.5000đ/tháng.

Về tài sản: chị xác nhận vợ chồng có khối tài sản như anh  D trình bày tại phiên tòa là hoàn toàn chính xác, nay ly hôn chị đề nghị Toà án chia đôi số tài sản trên, chị xin được lấy bằng tiền để anh  D sở hữu bằng hiện vật, chị chỉ đề nghị được lấy chiếc xe máy, bộ bàn ghế và bộ máy cưa.

Về số công nợ: chị vẫn khằng định số tiền chị vay của chị L và chị H là để chị chuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà P, ông H và để trả nợ Ngân hàng cho anh  D, nay chị yêu cầu anh  D cùng có trách nhiệm cùng chị để trả cho chị L, chị H, tuy giấy vay tiền chỉ có một mình chị ký nhận với chị L và chị H. còn số tiền vay của bà T trong quá trình giải quyết vụ án anh  D đã cam kết với bà T và chị là anh chịu trách nhiệm trả cho bà T số tiền trên.

Chị L trình bày: chị đã nghe rõ lời trình bày của anh  D, chị Hòa, xong chị cho rằng chị cho vợ chồng anh  D chị Hòa vay tiền là có thật bởi lẽ khi chị Hòa sang hỏi vay tiền chị, chị Hòa nói về chuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi vay chỉ có chị và chị Hòa làm giấy vay mượn với nhau chứ không có chữ ký của anh  D, nay anh  D chị Hòa ly hôn chị yêu cầu anh  D chị Hòa pH trả cho chị số tiền 120.000.000đ không yêu cầu lãi.

Chị H trình bày: khi chị Hòa sang hỏi vay tiền chị thì chị Hòa có nói chị Hòa vay về để trả nợ, còn trả nợ cho ai thì chị Hòa không nói rõ, vì tình cảm chị em quen biết nhau nên khi vay chỉ chị và chị Hòa ký nhận với nhau, nay anh  D chị Hòa ly hôn chị yêu cầu chị Hòa pH trả cho chị số tiền 40.000.000đ không yêu cầu lãi suất.

Bà T trình bày: bà đã nghe rõ lời trình bày của anh  D chị Hòa tại phiên tòa hôm nay, bản thân anh  D cũng thừa nhận có vay của bà số tiền đến nay là 34.000.000đ, nay anh  D chị Hòa ly hôn bà yêu cầu anh  D pH trả cho bà số tiền 34.000.000đ không yêu cầu trả lãi.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã phát biểu ý kiến về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến phần tranh luận tại phiên tòa là đảm bảo theo đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn là đầy đủ.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147 BLTTDS; các Điều 166, 280, 357, 463, 466 BLDS; các Điều 33, 56, 59, 81, 82, 83, 110 Luật hôn nhân và gia đình; căn cứ Nghị quyết 326 của UBTVQH về án phí, lệ phí:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh  D; chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng của chị Hòa; chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của chị H, chị L, bà T.

- Về quan hệ hôn nhân: cho anh Chu Văn  D ly hôn chị Đỗ Thị H.

- Về nuôi con chung: giao cháu Chu H Đăng cho anh  D trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Chu Tấn Sang và cháu Chu Thị Kim Oanh cho chị Hòa trực tiếp nuôi dưỡng. Anh  D có nghĩa vụ cấp dưỡng 1.500.000 đồng/ tháng cho cháu Sang cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

- Về tài sản chung: xác định tài sản chung của anh  D chị Hòa là ngôi nhà 02 tầng diện tích 93 m2 xây dựng năm 2012 nằm trên thửa đất của hộ bà Phan Thị P; 01 bộ bộ bàn ghế gỗ gõ mua năm 2019; 01 bàn thờ gỗ gụ mua năm 2019; 01 Tivi nhãn hiệu Samsung mua năm 2013 – 2014; 01 máy giặt mua năm 2014; 01 máy lọc nước; 01 điều hòa nhãn hiệu Samsung mua năm 2017; 01 tủ lạnh; 01 bình nóng lạnh; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade mua năm 2013 biển kiểm soát: 99D1 – 160.38; 01 máy cưa; 01 máy bào; 01 máy bơm nước.

Giao cho bà P ông H sử dụng ngôi nhà 02 tầng diện tích 93 m2, ông H bà P có nghĩa vụ trích trả số tiền tương ứng giá trị ngôi nhà là 429.420.000 đồng cho anh  D, chị Hòa mỗi người được nhận số tiền là 214.710.000 đồng.

Giao cho chị Hòa quản lý, sử dụng bộ bàn ghế gỗ gõ, máy cưa, máy bào, xe máy nhãn hiệu Honda Air Blade.

Giao cho anh  D quản lý, sử dụng bàn thờ gỗ gụ, điều hòa nhãn hiệu Samsung, bình nóng lạnh, Tivi nhãn hiệu Samsung, máy giặt, máy lọc nước, tủ lạnh, máy bơm nước. Chị Hòa pH trích trả anh  D số tiền 12.750.000 đồng chênh lệch về tài sản.

- Về công nợ chung: chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của chị L, chị H, bà T. Chị Hòa pH trả cho chị H 40.000.000 đồng, trả cho chị L số tiền 120.000.000 đồng; anh  D pH trả cho bà T số tiền 34.000.000 đồng.

- Về án phí, chi phí tố tụng khác: các đương sự chịu án phí, chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Về chi phí thẩm định: anh  D chị Hòa mỗi người pH chịu 4.000.000đ Về án phí: anh  D chị Hòa pH chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

Anh Chu Văn  D kết hôn cùng chị Đỗ Thị H vào năm 2006 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu thỏa thuận và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Được coi là hôn nhân hợp pháp, sau khi kết hôn chị Hòa về gia đình anh  D làm dâu luôn, vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 12/2020 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do chị Hòa luôn nói năng không đúng mực với bố mẹ anh và anh, anh cũng đã nhắc nhở xong không có kết quả, vợ chồng cũng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ tình cảm từ đó đến nay. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn anh xin được ly hôn chị Hòa. Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng anh  D chị Hòa cũng đã đến mức trầm trọng bởi lẽ giữa vợ chồng đều không có tiếng nói chung, mặc khác anh  D cũng có quan hệ với người phụ nữ khác, do vậy cần chấp nhận đơn xin ly hôn của anh  D là giải phóng cho cả đôi bên là phù hợp.

Về con chung: vợ chồng có 03 con chung là cháu Chu H Đăng, sinh ngày 10/11/2007, cháu Chu Thị Kim Oanh, sinh ngày 09/5/2012 và cháu Chu Tấn Sang, sinh ngày 14/8/2014. Nay ly hôn cả anh  D, chị Hòa đều xin được tiếp tục nuôi dưỡng cả 03 cháu, anh  D không yêu cầu chị Hòa pH góp phí tổn nuôi con cho anh. Còn chị Hòa thì yêu cầu anh  D pH góp phí tổn nuôi con cho chị mỗi tháng là 1.500.000đ/1 cháu/tháng. Hội đồng xét xử nhận thấy hiện tại anh  D đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đăng, còn cháu Oanh, cháu Sang đang ở cùng chị Hòa, về điều kiện kinh tế thì anh  D làm nghề tự do, còn chị Hòa làm công nhân thu nhập của cả anh  D chị Hòa đều phụ thuộc vào công việc, mặt khác theo nguyện vọng của cả 03 cháu thì đều có nguyện vọng được ở cùng chị Hòa, song để tránh để xáo trộn cần giữ nguyên như hiện nay là giao cho anh  D nuôi dưỡng cháu Đăng, giao cho chị Hòa nuôi dưỡng cháu Oanh và Sang, anh  D pH góp phí tổn nuôi con là cháu Sang cho chị Hòa mỗi tháng là 1.500.000đ đến khi cháu Sang đủ 18 tuổi là phù hợp.

Về tài sản: 01 ngôi nhà trần là 89,6m2, phần trước ngôi nhà là 1 tầng, phần sau của ngôi nhà là 2 tầng nằm trên thửa đất số 428, tờ bàn đồ 23 diện tích là 199,0m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ bà Phan Thị P có kích thước 5,6m x 16m + 94m x 5,6m = 140,64m2 trong đó diện tích mái tôn là 5,6m x 16m = 88m2, phần đổ trần thuộc loại nhà cấp III loại 9 (tuổi thọ 40 năm) với giá là 4.030.000đ/m2; phần mái tôn giá 424.000đ/m.

Giá trị nhà tại thời điểm làm: 140,64m2 x 4.030.000đ + 88m2 = 604.091.000đ trong đó trừ tiền sơn (nhà chưa sơn) tại thời điểm làm nhà là 50.000.000đ Giá nhà tại thời điểm làm là 554.091.000đ.

Giá trị tại thời điểm định giá là 554.091.000đ x 31/40 = 429.420.000đ.

Ngoài ra còn có các tài sản định giá cụ thể: 01 bộ bàn ghế gỗ gụ mua năm 2019 giá 10.000.000đ; 01 bộ bàn thờ gỗ gụ mua năm 2019 giá 5.000.000đ; 01 tivi nhãn hiệu Samsung mua năm 2012 – 2014 (48inch) 1.000.000đ; 01 máy giặt nhãn hiệu LG mua năm 2014 giá 2.500.000đ; 01 máy lọc nước nhãn hiệu Kagaroo đã cũ là: 500.000đ; 01 điều hòa Samsung mua năm 2017, 01 chiều 9000TU giá 1.500.000đ; 01 tủ lạnh nhãn hiệu Panasonic đã cũ là 300.000đ; 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Kanya100 giá 500.000đ; 01 xe máy Aplede màu 2013, 2014 giá 11.000.000đ; 01 bộ máy cưa + 01 máy bào là 16.000.000đ; 01 máy bơm nước đã cũ là 200.000đ. Riêng chiếc xe máy Wave Alpha mua năm 2020 tại thời điểm định giá không có nên Hội đồng định giá không xem xét. Tổng cộng tài sản định giá là ngôi nhà và các tài sản trên là 477.920.000đ.

Ngôi nhà của vợ chồng anh  D chị Hòa làm nằm trên diện tích đất 199,0m2 là đất của hộ bà P, ông H, nên cần giao toàn bộ ngôi nhà do vợ chồng anh  D chị Hòa làm cho bà P, ông H sử dụng, xong ông H bà P pH trích trả cho anh  D, chị Hòa tiền làm nên ngôi nhà trên, còn lại tài sản là các đồ dùng dụng cụ nên cần giao cho anh  D chị Hòa cùng sở hữu ngang nhau.

Về công nợ: anh  D chỉ thừa nhận số tiền của bà T là 34.000.000đ, còn số tiền 120.000.000đ của chị L và số tiền 40.000.000đ của chị H anh  D không thừa nhận, riêng chị Hòa chỉ thừa nhận số tiền của chị L và chị H còn số tiền của chị T do anh  D vay anh  D đã thừa nhận trả cho bà T chị không có ý kiến gì, riêng số tiền của chị L và chị H chị yêu cầu anh  D pH cùng chị trả cho chị L và chị H số tiền trên. Xét thấy toàn bộ số tiền vay mượn do bà T, chị L và chị H cung cấp cho Tòa án đều có giấy tờ xong chỉ có một mình chị Hòa ký nhận, nay anh  D thừa nhận của bà T thì cần buộc anh  D pH trả cho bà T, còn số tiền của chị L, chị H chị Hòa thừa nhận thì chị Hòa pH chịu trách nhiệm trả cho chị L, chị H là phù hợp.

Hội đồng xét xử nhận thấy toàn bộ khối tài sản của vợ chồng anh  D, chị Hòa tạo dựng nên là do cả 2 vợ chồng cùng có công tạo dựng nên nay anh  D chị Hòa ly hôn cần chia đôi cho mỗi người được hưởng ½ là phù hợp. Riêng số nợ của vợ chồng anh  D chị Hòa tổng cộng của 3 người là 194.000.000đ, tuy khi vay mượn đôi bên có làm giấy tờ vay mượn xong chỉ có chị Hòa ký chứ anh  D không hề biết việc chị Hòa có vay của chị L, chị H để làm gì nên anh không chịu trách nhiệm, anh  D chị Hòa có thừa nhận vay của 3 người trên xong không thống nhất được là vay dùng chung vào công việc gia đình và cụ thể của từng người, xong Hội đồng xét xử nhận thấy số tiền của bà T anh  D thừa nhận thì buộc anh  D pH trả cho bà T, còn số nợ của chị L, chị H chị Hòa thừa nhận thì cần buộc chị Hòa pH trả cho chị L chị H là phù hợp.

Trong quá trình giải quyết vụ kiện chị Đỗ Thị H có đơn trình bày về điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình , có con nhỏ bị bệnh và được xác nhận của chính quyền điạ P nên cần miễn một phần án phí sơ thẩm cho chị Hòa.

Về chi phí thẩm định, định giá trong quá trình giải quyết vụ án chị Hòa yêu cầu Tòa án thành lập hội đồng định giá và thẩm định tài sản chị Hòa đã nộp cho Tòa án số tiền 8.000.000đ, nay ly hôn cả anh  D chị Hòa đều không thỏa thuận được nên cần buộc anh  D chị Hòa mỗi người pH chịu một phần hai là phù hợp.

Về án phí: anh  D pH chịu án phí theo quy định của pháp luật. Đối với chị Hoà, do hiện chị đang làm công nhân có thu nhập thấp, pH nuôi con nhỏ đang bị bệnh, điều kiện kinh tế khó khăn nên xét thấy cần giảm ½ án phí theo quy định của pháp luật cho chị Hoà là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: các Điều 28, 35, 39, 143, 144, 145, 147, 227, 228, 235, 266 và 267 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 116, 119, 357, 463, 466 Bộ luật dân sự; Điều 51, 56, 59, 60, 61, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh  D; chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng của chị Hòa; chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của chị H, chị L, bà T.

Về quan hệ hôn nhân: anh Chu Văn  D được ly hôn chị Đỗ Thị H.

Về con chung: Giao cho anh Chu Văn  D nuôi dưỡng cháu Chu H Đăng, sinh ngày 10/11/2007, giao cho chị Đỗ Thị H nuội dưỡng cháu Chu Tấn Sang, sinh ngày 14/8/2014, cháu Chu Thị Kim Oanh, sinh ngày 09/5/2012, anh  D pH đóng góp phí tổn nuôi con chị Hòa đối với cháu Sang là 1.500.000đ/ tháng đến khi cháu Sang đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Xác nhận vợ chồng anh Chu Văn  D và chị Đỗ Thị H có tài sản chung là:

- 01 ngôi nhà trần là 89,6m2, phần trước ngôi nhà là 1 tầng, phần sau của ngôi nhà là 2 tầng nằm trên thửa đất số 428, tờ bàn đồ 23 diện tích là 199,0m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ bà Phan Thị P có kích thước 5,6m x 16m + 94m x 5,6m = 140,64m2 trong đó diện tích mái tôn là 5,6m x 16m = 88m2, phần đổ trần thuộc loại nhà cấp III loại 9 (tuổi thọ 40 năm) với giá là 4.030.000đ/m2; phần mái tôn giá 424.000đ/m.

Giá trị nhà tại thời điểm làm: 140,64m2 x 4.030.000đ + 88m2 = 604.091.000đ trong đó trừ tiền sơn (nhà chưa sơn) tại thời điểm làm nhà là 50.000.000đ Giá nhà tại thời điểm làm là 554.091.000đ.

- 01 bộ bàn ghế gỗ gụ mua năm 2019 giá 10.000.000đ; 01 bộ bàn thờ gỗ gụ mua năm 2019 gias 5.000.000đ; 03 ti vi nhãn hiệu Samsung mua năm 2012 – 2014 (48inch) 1.000.000đ; 01 máy giặt nhãn hiệu LG mua năm 2014 giá 2.500.000đ; 01 máy lọc nước nhãn hiệu Kangaroo đã cũ là 500.000đ; 01 điều hòa Samsung mua năm 2017, 01 chiều 9000TU giá 1.500.000đ; 01 tủ lạnh nhãn hiệu Panasonic đã cũ là 300.000đ; 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Kangaroo giá 500.000đ; 01 xe máy Air Blade màu 2013, 2014 giá 11.000.000đ; 01 bộ máy cưa + 01 máy bào là 16.000.000đ; 01 máy bơm nước đã cũ là 200.000đ. Riêng chiếc xe máy Wave Alpha mua năm 2020 tại thời điểm định giá không có nên Hội đồng định giá không xem xét.

Tổng cộng tài sản định giá là ngôi nhà và các tài sản trên là 477.920.000đ.

Giao cho bà Phan Thị P và ông Chu Văn H được sở hữu toàn bộ ngôi nhà trên, nhưng ông H bà P pH trích trả cho anh Chu Văn  D và chị Đỗ Thị H mỗi người là 214.710.000đ.

Chia cho anh Chu Văn  D được sử dụng: 01 bàn thờ gỗ gụ, 01 ti vi Samsung (48in), 01 máy lọc nước nhãn hiệu Kangaroo, 01 máy bơm, 01 máy điều hòa SamSung, 01 máy giặt nhãn hiệu LG, 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Kangaroo, 01 tủ lạnh nhãn hiệu Panasonic và số tiền 214.710.000đ do ông H bà P trả. Và được nhận số tiền 12.750.000đ do chị Hòa trả.

Chia cho chị Đỗ Thị H được sử dụng: 01 xe máy Air Blade, 01 bộ bàn ghế gỗ gụ, 01 bộ máy cưa, máy bào và số tiền 214.710.000đ, nhưng pH trích trả cho anh  D số tiền 12.750.000đ chênh lệch về tài sản.

Về công nợ: Buộc chị Đỗ Thị H pH trả cho chị Đỗ Thị L 120.000.000đ, chị Nguyễn Thị H 40.000.000đ.

Buộc anh Chu Văn  D pH trả cho bà Ngô Thị T 34.000.000đ Về chi phí thẩm định định giá tài sản: anh Chu Văn  D và chị Đỗ Thị H mỗi người pH chịu 4.000.000đ (xác nhận chị Hòa đã nộp 8.000.000đ) anh  D pH hoàn trả cho chị Hòa 4.000.000đ.

Về án phí: Anh Chu Văn  D pH chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con và 13.648.000đ án phí DS-ST, được trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số AA/2020/0001259 ngày 13/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong.

Chị Đỗ Thị H pH chịu 9.974.000đ án phí DS-ST, nhưng được trừ số tiền 10.000.000đ đã nộp theo biên lai thu số AA/2020/0001224 ngày 29/7/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong. Hoàn trả cho chị Hoà số tiền 26.000đ tiền tạm ứng án phí.

Hoàn trả chị Nguyễn Thị H 1.000.000đ theo biên lai thu số AA/2020/0001315 ngày 25/8/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong. Hoàn trả chị Đỗ Thị L 1.500.000đ theo biên lai thu số AA/2020/0001316 ngày 25/8/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong. Hoàn trả bà Ngô Thị T 850.000đ theo biên lai thu số AA/2020/0001411 ngày 27/9/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong.

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó pH trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy dịnh tại điều 357 BLDS.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 27/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;