Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 79/2022/TLST-HNGĐ ngày 03/3/2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 8 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 26/2022/QĐHPT - HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1988

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983

Đều ĐKHKTT: Khu 4, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay của chị N: Khu 5, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

(Chị N có mặt, anh T vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15/02/2022, bản tự khai ngày 9/3/2022, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ngày 19/01/2009, chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Văn T đăng ký kết hôn tại UBND xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng với gia đình anh T. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh T thường xuyên rượu chè, có lần hai bên đã xảy ra xô xát. Đến đầu năm 2022, chị N chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống tại Khu 5, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, vợ chồng sống ly thân từ đó, mỗi người một nơi không quan tâm đến nhau. Nay chị N nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm với anh T không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị N trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc K2, sinh ngày 02/9/2009 và cháu Nguyễn Quốc L, sinh ngày 10/11/2012. Khi ly hôn, chị N xin được nuôi cả 02 con chung và không đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn, anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T, lấy lời khai của mẹ đẻ anh T là bà Nguyễn Thị S. Tại biên bản lấy lời khai ngày 30/3/2022 của bà Nguyễn Thị Sam là mẹ đẻ anh T xác định: Sau khi vợ chồng chị N, anh T kết hôn thì cùng chung sống với gia đình bà N tại khu 5, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Cuộc sống vợ chồng bình thường không có mâu thuẫn gì. Bà Sam chỉ biết sự việc vợ chồng chị N, anh T mâu thuẫn vì chị N có tình cảm với người đàn ông khác, nên đến đầu năm 2022 chị N chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Hai con chung vẫn sống cùng bà Sam và anh T, anh T làm nghề thợ xây đi làm cả ngày tối mới về nhà. Bà Sam đã thông báo lại cho anh T về việc Tòa án đề nhà làm việc và giao lại cho anh T các văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt.

Theo kết quả xác minh ngày 30/3/2022 tại khu dân cư cùng với trưởng khu 4, xã Klà ông Nguyễn Vi H: Ông Hùng xác nhận chị N, anh T có hộ khẩu thường trú khu 4, xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Quá trình vợ chồng chị N, anh T chung sống cùng gia đình bà Nguyễn Thị S tại địa phương, ông Hùng không nắm cụ thể, ông Hùng chỉ biết đầu năm 2022, chị N có đến báo cáo với khu dân cư là vợ chồng không thể tiếp tục chung sống nên chị N chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống, hai con chung hiện vẫn sống cùng gia đình anh T. Đại diện khu dân cư đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn bị đơn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Đề nghị giao cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc L, sinh ngày 10/11/2012 và Nguyễn Quốc K2, sinh ngày 02/9/2009 cho đến khi cả 02 con chung thành niên. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N vì chị N tự nguyện không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị N phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngày 15/02/2022 chị Nguyễn Thị N nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn với anh Nguyễn Văn T, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Anh Nguyễn Văn T được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh T là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Văn T đăng ký kết hôn ngày 19/01/2020 tại UBND xã Kim Đức, TP. V, tỉnh Phú Thọ đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng ở chung với gia đình bố mẹ đẻ anh T tại xã K, thành phố V, tỉnh Phú Thọ, tình cảm vợ chồng bước đầu hòa thuận, hạnh phúc. Trong cuộc sống do kinh tế gia đình khó khăn nên, anh T rượu chè không quan tâm gì đến gia đình vợ, con. Cuối năm 2020 đầu năm 2021 vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong kinh tế gia đình, vợ chồng không tin tưởng, tôn trọng nhau từ đó lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau và có lần 2 bên đã xảy ra xô xát, chị N đã về nhà bố mẹ đẻ ở khu 5, xã K, thành phố V từ đầu năm 2022. Quá trình giải quyết vụ án anh T không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm trình bày gì về việc ly hôn. Căn cứ vào lời khai của bà Nguyễn Thị S mẹ đẻ anh T và qua kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại khu hành chính nơi anh chị cư trú thấy phù hợp với lời trình bày của chị N. Hội đồng xét xử thấy rằng có đủ căn cứ khẳng định chị N và anh T đã không còn chung sống với nhau một thời gian dài, giữa hai vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm đến nhau, mâu thuẫn cũng đã được hai bên gia đình, chính quyền địa phương khuyên giải nhưng không có kết quả. Do vậy tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án anh T không đến Tòa án làm việc và hòa giải, không trình bày quan điểm gì có thể thấy anh T không có mong muốn đoàn tụ, không có nguyện vọng để giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Việc chị N xin ly hôn với anh T là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị N trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc K2, sinh ngày 02/9/2009 và cháu Nguyễn Quốc L, sinh ngày 10/11/2012. Khi ly hôn, chị N xin được nuôi cả 02 con chung và không đề nghị anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh T không đến Tòa án nên không có quan điểm gì về con chung.

Xét về điều kiện chăm sóc và nuôi dạy con chung của hai bên đương sự thấy rằng: Nguyện vọng chị N xin nuôi cả 2 con chung là chính đáng vì anh T không có quan điểm gì về việc nuôi con chung trong quá trình giải quyết vụ án, như vậy anh T đã từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như trách nhiệm của người bố trong việc thể hiện quan điểm về việc nuôi dạy, chăm sóc con c hung. Mặt khác cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Khánh và cháu Lâm là đều muốn được ở với mẹ.

Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo quyền lợi cho các con chung, cần chấp nhận đề nghị của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị N cần giao cho chị N được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng 02 con chung là cháu cháu Nguyễn Quốc K2, sinh ngày 02/9/2009 và cháu Nguyễn Quốc L, sinh ngày 10/11/2012 cho đến khi cháu Kh, cháu L thành niên là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con HĐXX xét thấy chị N tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên cần chấp nhận là phù hợp.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N xác định vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì. Anh T không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về các vấn đề trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: chị N phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị N đối với anh Nguyễn Văn T.

Xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con chung là cháu Nguyễn Quốc L, sinh ngày 10/11/2012 và Nguyễn Quốc K2, sinh ngày 02/9/2009 cho đến khi cả hai con chung thành niên. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N vì chị N tự nguyện không yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị N đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2020/0009260 ngày 02/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

“ Trong T hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;