Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 25/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 61/2022/TLST-HNGĐ ngày 21/02/2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2022/QĐHPT - HNGĐ ngày 28 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Minh N, sinh năm 1980

Bị đơn: Anh Nguyễn Mạnh H, sinh năm 1976 Đều ĐKHKTT: Tổ 39, khu TP, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

Chỗ ở hiện nay của chị N: Tổ 7, khu MB, phường M2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

(Chị N có mặt, anh H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 23/12/2021, bản tự khai ngày 18/3/2022, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Phạm Thị Minh N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ngày 15/12/2002, chị Phạm Thị Minh N và anh Nguyễn Mạnh H đăng ký kết hôn tại UBND phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng xây nhà ở riêng. Cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, chị N hiện đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống tại Tổ 7, khu MB, phường M2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ từ tháng 02/2022 cho đến nay, mỗi người một nơi không quan tâm đến nhau nữa. Nay chị N nhận thấy hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm với anh H không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị N trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Mỹ Ngọc, sinh ngày 24/4/2004 và cháu Nguyễn Quang Minh, sinh ngày 30/6/2007. Khi ly hôn, chị N xin được nuôi cả 02 con chung và không đề nghị anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N trình bày vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì.

Phía bị đơn, anh Nguyễn Mạnh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không tham gia phiên tòa.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh tại địa phương về tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh H, lấy lời khai của bố đẻ anh H là ông Nguyễn Văn T. Tại biên bản lấy lời khai ngày 31/3/2022 của ông Nguyễn Văn T xác định: Sau khi vợ chồng chị N, anh H kết hôn thì hai vợ chồng xây nhà ở riêng sát nhà của gia đình ông T tại Tổ 39, khu TP, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Cuộc sống chung của vợ chồng chị N, anh H bình thường không có mâu thuẫn lớn mà chủ yếu là những chuyện nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, gia đình ông Tước đã hòa giải nhiều lần mà cuộc sống vợ chồng chị N anh H không cải thiện. Chị N đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ sống từ tháng 02/2022, vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Hai con chung sống cùng chị N. Anh H làm lao động tự do đi làm cả ngày tối mới về nhà. Ông Tước đã thông báo lại cho anh H về việc Tòa án đến nhà làm việc và giao lại cho anh H các văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt nhưng anh H không có ý kiến gì.

Theo kết quả xác minh ngày 31/3/2022 tại khu dân cư cùng với trưởng khu TP, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ là ông Nguyễn Nhật Th: Ông Th xác nhận chị N, anh H có hộ khẩu thường trú tại Tổ 39, khu TP, phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Quá trình vợ chồng chị N, anh H chung sống tại địa phương, ông Thành có biết việc vợ chồng có mâu thuẫn nhưng ông Thành không nắm cụ thể, ông Thành chỉ biết tháng 02/2022, chị N đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, hai con chung hiện sống cùng chị N. Đại diện khu dân cư đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn bị đơn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Minh N được ly hôn anh Nguyễn Mạnh H.

Về con chung: Đề nghị giao cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả 02 con chung là cháu Nguyễn Mỹ Ng, sinh ngày 24/4/2004 và cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/6/2007 cho đến khi cả 02 con chung thành niên. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N vì chị N tự nguyện không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N xác định vợ chồng không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị N phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngày 23/12/2021 chị Phạm Thị Minh N nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn với anh Nguyễn Mạnh H, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Anh Nguyễn Mạnh H được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh H là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Phạm Thị Minh N và anh Nguyễn Mạnh H đăng ký kết hôn ngày 15/12/2002 tại UBND phường M, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng ở riêng. Trong cuộc sống vợ chồng có mâu thuẫn kéo dài vì những bất đồng nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày dẫn đến thường xuyên cãi nhau. Chị N đã về nhà bố mẹ đẻ ở Tổ 7, khu MB, phường M2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ từ tháng 2/2022. Quá trình giải quyết vụ án anh H không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm trình bày gì về việc ly hôn. Căn cứ vào lời khai của ông Nguyễn Văn Tước bố đẻ anh H và qua kết quả xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương nơi anh chị cư trú thấy phù hợp với lời trình bày của chị N. Hội đồng xét xử thấy rằng có đủ căn cứ khẳng định chị N và anh H đã không còn chung sống với nhau một thời gian dài, giữa hai vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm đến nhau, mâu thuẫn cũng đã được hai bên gia đình, chính quyền địa phương khuyên giải nhưng không có kết quả. Do vậy tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án anh H không đến Tòa án để làm việc và hòa giải, không trình bày quan điểm gì có thể thấy anh H không có mong muốn đoàn tụ, không có nguyện vọng để giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Việc chị N xin ly hôn với anh H là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Phạm Thị Minh N trình bày vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Mỹ Ng, sinh ngày 24/4/2004 và cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/6/2007. Khi ly hôn, chị N xin được nuôi cả 02 con chung và không đề nghị anh Nguyễn Mạnh H cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H không đến Tòa án nên không có quan điểm gì về con chung.

Xét về điều kiện chăm sóc và nuôi dạy con chung của hai bên đương sự thấy rằng: Nguyện vọng chị N xin nuôi cả hai con chung là chính đáng vì anh H không có quan điểm gì về việc nuôi con chung trong quá trình giải quyết vụ án, như vậy là anh H từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như trách nhiệm của người bố trong việc thể hiện quan điểm về việc nuôi dạy, chăm sóc con chung.

Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy để đảm bảo quyền lợi cho các con chung, cần chấp nhận đề nghị của nguyên đơn là chị Phạm Thị Minh N là giao cho chị N được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng hai con chung là cháu Nguyễn Mỹ Ngọc, sinh ngày 24/4/2004 và cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/6/2007 đến khi cháu Ng, cháu Minh thành niên là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con HĐXX xét thấy chị N tự nguyện không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung nên cần chấp nhận là phù hợp.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Chị N xác định vợ chồng không có, ly hôn chị không có đề nghị gì. Anh H không đến Tòa án làm việc nên không có quan điểm gì về các vấn đề trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị N phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Minh N đối với anh Nguyễn Mạnh H.

Xử cho chị Phạm Thị Minh N ly hôn với anh Nguyễn Mạnh H.

2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Minh N trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cả 02 con chung là cháu Nguyễn Mỹ Ng, sinh ngày 24/4/2004 và cháu Nguyễn Quang M, sinh ngày 30/6/2007 cho đến khi cả hai con chung thành niên.

Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N vì chị N tự nguyện không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Phạm Thị Minh N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận chị N đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0009148 ngày 17/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh Phú Thọ.

“ Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;