TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 24/2024/HNGĐ-ST NGÀY 23/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 399/2023/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 388/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thế C, sinh năm 1989; địa chỉ: Xóm F, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị C1, sinh năm 1993; địa chỉ cư trú trước khi xuất cảnh: Xóm B, xã H, huyện H, tỉnh Nghệ An. Hiện đang ở Nhật Bản; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, đơn xin xét xử vắng mặt, nguyên đơn anh Nguyễn Thế C trình bày:
Anh và chị Nguyễn Thị C1 kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện H, tỉnh Nghệ An vào ngày 18/7/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chung sống hạnh phúc với nhau được được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không quan tâm lẫn nhau. Sau đó chị C1 đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản. Từ khi sang Nhật Bản chị C1 ít gọi điện về cho gia đình, không quan tâm cuộc sống của con và việc học tập của con, cũng không gửi tiền về chu cấp cho con ăn học. Tháng 7/2022 chị C1 có về Việt Nam nhưng chị cũng không tìm thăm hỏi con. Từ tháng 8/2022 đến nay chị C1 không gọi điện về hỏi thăm gia đình. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị C1.
Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị C1 có 01 con chung là cháu Nguyễn Thế Long V, sinh ngày 03/12/2013. Hiện nay cháu V đang ở cùng với anh. Ly hôn anh đề nghị Tòa án giao cháu V cho anh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không yêu cầu chị Nguyễn Thị C1 cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn chị Nguyễn Thị C1, do vợ chồng không liên lạc gì với nhau nên anh Nguyễn Thế C không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị C1 ở Nhật Bản. Theo anh C trình bày chị C1 vẫn thường xuyên liên lạc về với bố mẹ đẻ là ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị T1 ; địa chỉ cư trú: Xóm B, xã H, huyện H, tỉnh Nghệ An và ông T, bà T1 biết địa chỉ cụ thể của chị C1 ở Nhật Bản; đề nghị Tòa án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ đề làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã gửi văn bản cho ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị T1 (là bố mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị C1) thông báo về việc Tòa án đang thụ lý, giải quyết vụ án đề ông T, bà T1 thông báo cho chị C1 và đề nghị chị C1 nêu ý kiến về yêu cầu khởi kiện của anh C. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng bao gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Quyết định hoãn phiên tòa tại nơi cư trú của chị C1 trước khi đi nước ngoài. Tuy nhiên, chị C1 không có ý kiến gì và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho anh Nguyễn Thế C và chị Nguyễn Thị C1 được ly hôn. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thế Long V, sinh ngày 03/12/2013 cho anh C trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; về cấp dưỡng nuôi con: Anh C không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét do nguyên đơn không yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình có đương sự hiện đang ở Nhật Bản. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại khoản 3 Điều 35, điềm c khoản 1 Điều 37, Điều 40 và Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị C1 hiện đang ở Nhật Bản, không có địa chỉ cụ thể. Ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị T1 (là bố mẹ đẻ của chị C1 ) đã thông báo cho con gái về việc thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Tòa án cũng đã niêm yết các văn bản tố tụng liên quan theo quy định pháp luật đồng thời yêu cầu ông T, bà T1 cung cấp địa chỉ cụ thể của chị C1 ở Nhật Bản nhưng ông T, bà T1 không cung cấp được. Tính đến ngày mở phiên tòa xét xử lần thứ hai, Tòa án không nhận được bất cứ văn bản nào của chị C1 trình bày về yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh C nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết và vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn chị anh Nguyễn Thế C vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn chị Nguyễn Thị C1 vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa vắng mặt các đương sự.
[3] Xét nội dung vụ án và các ý kiến, yêu cầu của đương sự:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thế C và chị Nguyễn Thị C1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung hạnh phúc một thời gian thì đã phát sinh mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do tính tình không hợp, chị C1 đang sinh sống làm việc ở tại Nhật Bản, anh C ở Việt Nam, hai bên không còn liên lạc, quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng phai nhạt dần. Anh C có nguyện vọng được ly hôn với chị C1. Xét thấy, tình cảm vợ chồng giữa anh C và chị C1 không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Vì vậy, nếu kéo dài cuộc hôn nhân này thì mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho anh C được ly hôn với chị C1 là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
[3.2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Thế Long V, sinh ngày 03/12/2013; hiện nay, cháu V đang ở với anh C và anh C đề nghị được trực tiếp nuôi con chung. Xét thấy, chị C1 hiện đang ở nước ngoài và chưa có ý kiến gì về việc nuôi con nên cần giao cháu V cho anh C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật, về cấp dưỡng nuôi con, anh C chưa yêu cầu và chị C1 cũng chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh Nguyễn Thế C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.
[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn anh Nguyễn Thế C phải chịu án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, Điều 40, khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 469 và Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Nguyễn Thế C.
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thế C được ly hôn với chị Nguyễn Thị C1.
- Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Nguyễn Thế Long V, sinh ngày 03/12/2013 cho anh Nguyễn Thế C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Nguyễn Thế Long V đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con, anh Nguyễn Thế C chưa yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, chị Nguyễn Thị C1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, nợ chung: Các bên có quyền khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản chung và nợ chung bằng một vụ án dân sự khác nếu có yêu cầu.
2. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc anh Nguyễn Thế C phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng số tiền tạm ứng đã nộp tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Nghệ An theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0001348 ngày 20 tháng 11 năm 2023.
3. Anh Nguyễn Thế C có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; chị Nguyễn Thị C1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 24/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 24/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về