Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 47/2022/TLST - HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2022/QĐST – HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm: 1984; địa chỉ: Xóm 4, xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. (vắng mặt có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Văn K, sinh năm: 1980; địa chỉ: Xóm 4, xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. (đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn chị Phạm Thị L trình bày:

Chị và anh Trần Văn K kết hôn trên cơ sở tự nguyện đăng ký kết hôn hợp pháp tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện Y (nay là xã L, thị xã Q), tỉnh Quảng Ninh vào ngày 01 tháng 10 năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại xóm 4, xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Ngoài ra do anh K thường uống rượu say sau đó mắng chửi, xúc phạm chị. Bản thân chị đã khuyên bảo, tha thứ nhiều lần nhưng anh K không thay đổi. Chị và anh K đã sống ly thân nhau từ tháng 2 năm 2022, mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm tới ai. Nay chị không còn yêu thương anh K nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Trần Văn K.

Về con chung: Chị và anh Trần Văn K có ba con chung là Trần Thị Thanh C, sinh ngày 20/4/2007; Trần Văn M, sinh ngày 01/3/2011 và Trần Thị Hoài T, sinh ngày 11/10/2012. Tại đơn khởi kiện và bản tự khai chị đề nghị được nuôi cháu T, anh K nuôi cháu C và M, sau đó chị thay đổi đề nghị được nuôi cả ba con chung, không đề nghị anh K phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị và anh Trần Văn K không có tài sản gì chung nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai bị đơn anh Trần Văn K trình bày:

Về tình cảm: Anh và chị Phạm Thị L kết hôn trên cơ sở tự nguyện đăng ký kết hôn hợp pháp tại Uỷ ban nhân dân xã L, huyện Y (nay là xã L, thị xã Q), tỉnh Quảng Ninh vào ngày 01 tháng 10 năm 2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại xóm 4, xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị L không có trách nhiệm, không quan tâm tới gia đình chồng nên khi uống rượu anh có bức xúc, mắng chửi chị L, từ đó tình cảm vợ chồng bị rạn nứt. Ngoài ra do chị L tính tình hay cằn nhằn, nhiếc móc anh nên vợ chồng không có sự chia sẻ với nhau. Chị L đã về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân với anh từ tháng giêng năm 2022 âm lịch. Quan điểm của anh vẫn còn tình cảm với chị L nên anh không muốn ly hôn với chị Phạm Thị L.

Về con chung: Anh Trần Văn K trình bày, anh và chị L có ba con chung là Trần Thị Thanh C, sinh ngày 20/4/2007; Trần Văn M, sinh ngày 01/3/2011 và Trần Thị Hoài T, sinh ngày 11/10/2012. Khi ly hôn anh K đề nghị giao cả ba con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên và anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh K trình bày, vợ chồng anh không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Tại phiên tòa chị L và anh K đều vắng mặt. Chị L có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Anh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.

Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương nơi chị L và anh K cư trú thấy: Chị L và anh K kết hôn trên cơ sở tự nguyện đăng ký kết hôn hợp pháp tại Uỷ ban nhân dân xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn chị L và anh K chung sống tại xóm 4, xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống chị L và anh K hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không có sự tin tưởng nhau nên tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, xảy ra to tiếng, thường xuyên cãi nhau. Chị L đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống từ đầu năm 2022 âm lịch, vợ chồng mỗi người sống một nơi.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà có quan điểm:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa theo đúng quy định.

- Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đầy đủ quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xử chị Phạm Thị L được ly hôn với anh Trần Văn K. Về con chung: Giao cả ba con chung Trần Thị Thanh C, sinh ngày 20/4/2007; Trần Văn M, sinh ngày 01/3/2011 và Trần Thị Hoài T, sinh ngày 11/10/2012 cho chị Phạm Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên. Anh Trần Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Về tài sản chung, đương sự không yêu cầu nên đề nghị Tòa án không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền xét xử của Tòa án: Chị Phạm Thị L khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Văn K có địa chỉ tại xóm 4, xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị L và anh Trần Văn K tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 01 tháng 10 năm 2007. Do vậy hôn nhân của chị Phạm Thị L và anh Trần Văn K là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Trong thời gian chung sống vợ chồng chị L và anh K phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra to tiếng, cãi nhau nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có sự tin tưởng, tôn trọng nhau. Hiện tại chị L và anh K cũng đã sống ly thân nhau, mỗi người một nơi, đều không quan tâm đến nhau. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân của chị L và anh K đã ở mức độ mâu thuẫn trầm trọng, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Phạm Thị L.

- Về con chung: Chị Phạm Thị L và anh Trần Văn K có ba con chung là Trần Thị Thanh C, sinh ngày 20/4/2007; Trần Văn M, sinh ngày 01/3/2011 và Trần Thị Hoài T, sinh ngày 11/10/2012. Hiện tại cháu T đang sống cùng chị L, cháu C và cháu M đang sống cùng anh K. Chị L có quan điểm đề nghị được trực tiếp nuôi cả ba con chung đến khi thành niên, không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh K cũng có quan điểm nếu vợ chồng ly hôn thì đề nghị giao cả ba con chung cho chị L nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy, cả chị L và anh K đều có nguyện vọng giao cả ba con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Hơn nữa cả ba con chung đều có nguyện vọng được ở với chị L. Do đó có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị L về việc giao cả ba con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L và anh K đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Chị Phạm Thị L và anh Trần Văn K không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị Phạm Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Chị L và anh K có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57; khoản 1 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Điều 26 Luật Thi hành án dân sự

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị L.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị L được ly hôn anh Trần Văn K.

- Về con chung: Giao cả ba con chung là Trần Thị Thanh C, sinh ngày 20/4/2007; Trần Văn M, sinh ngày 01/3/2011 và Trần Thị Hoài T, sinh ngày 11/10/2012 cho chị Phạm Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Trần Văn K không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà chị L đã nộp theo biên lai số 0010641 ngày 16 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Q. Chị L đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Thị L và anh Trần Văn K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;