TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỔ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 17/2024/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Trong ngày 08 tháng 4 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 120/2023/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2023 về “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số 14/2024/QĐXX-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Châu G, sinh năm 1992; nơi thường trú: tổ H, khu D, phường C, thành phố C; nghề nghiệp: công nhân - có mặt tại phiên toà.
- Bị đơn: anh Cao Mạnh C, sinh năm 1987; nơi thường trú: tổ H, khu D, phường C, thành phố C; hiện đang chấp hành án tại đội 26, phân trại số A, Trại giam Q, cục A, Bộ C1 - vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử án vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện nhận ngày 16/11/2023 và lời khai tại hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Châu G trình bày: chị kết hôn với anh Cao Mạnh C vào ngày 24 tháng 9 năm 2010 có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, trước khi kết hôn cả hai chưa kết hôn lần nào. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị về chung sống tại gia đình nhà chồng tổ H khu D, phường C, thành phố C, Quảng Ninh cho đến cuối năm 2012 thì xảy ra mâu thuẫn vợ chồng, năm 2013 vợ chồng sống ly thân nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, anh C mải chơi, không tu chí làm ăn, không quan tâm gia đình và đi vào con đường tệ nạn xã hội, đến năm 2021 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xử phạt 06 (sáu) năm tù giam về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, hiện đang chấp hành án tại đội 26, phân trại số A, Trại giam Q được 03 năm, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn và vợ chồng đã sống ly thân nhau gần 10 năm nay. Khi ly thân, cả hai vợ chồng không hòa giải được với nhau. Cho đến nay tình cảm của chị G dành cho anh C không còn gì nữa, duy trì hôn nhân không đảm bảo hạnh phúc vì vậy, chị kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Cao Mạnh C.
Về con chung: chị và anh Cao Mạnh C có 01 con chung là Cao Duy P, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2010, hiện nay đang ở với chị. Khi ly hôn, để cháu ổn định học tập nên chị có nguyện vọng xin nuôi con Cao Duy P và không yêu cầu anh C và phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và vay nợ chung: chị không yêu cầu tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn - anh Cao Mạnh C có đơn xin xử vắng mặt và có bản tự khai có trong hồ sơ như sau: anh và chị Nguyễn Thị Châu G tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố C vào năm 2010. Sau khi kết hôn anh và chị G về chung sống tại gia đình ở tổ H khu D, phường C, thành phố C, Quảng Ninh, thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2012 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là bất đồng quan điểm sống, bản thân anh mải chơi không quan tâm đến gia đình vợ con, anh và chị G sống ly thân từ năm 2013, khi ly thân mỗi người ở một nơi, nay anh và chị G không còn tình cảm với nhau nữa, mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng không thể hòa hợp được vì vậy anh đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Châu G và anh có quan điểm không hòa giải. Do anh đang thi hành án tại Trại giam Q, Cục C2 Bộ C1 không tham dự phiên tòa được nên anh xin xử án vắng mặt.
Về con chung: anh và chị G có 01 con chung là Cao Duy P, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2010, anh đồng ý giao con chung Cao Duy P chị G chăm sóc nuôi dưỡng, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và công nợ chung : anh không yêu cầu tòa án giải quyết. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến thời điểm trước khi nghị án thấy rằng Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp và tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng. Việc thu thập chứng cứ đầy đủ. Giao nhận tài liệu, hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng theo trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ hồ sơ vụ án và các tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình: chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Châu G; về con chung: giao cho chị G nuôi dưỡng con chung Cao Duy P, anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và công nợ chung : không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: các đương sự tranh chấp về Hôn nhân và gia đình có nơi cư trú tại thành phố C, tỉnh Quảng Ninh do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn có mặt, bị đơn đang cải tạo tại trại giam có đơn xin xử án vắng mặt, do đó Tòa án xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: chị Nguyễn Thị Châu G và anh Cao Mạnh C kết hôn vào ngày 24 tháng 9 năm 2010 và làm thủ tục đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường C, Thành phố C, tỉnh Quảng Ninh là hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị G và anh C đã trầm trọng kéo dài, vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau và đã sống ly thân nhau 10 năm nay. Khi ly thân cả hai vợ chồng không hòa giải được với nhau, hiện nay anh C đang chấp hành án tại trại giam D hôn nhân không đảm bảo hạnh phúc cho cả hai. Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã xác minh thu thập chứng cứ tại nơi chị G và anh C chung sống trước khi ly thân được đại diện khu phố cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân của chị G và anh C phù hợp với lời khai của chị G và anh C. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng chị G và anh C đã rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Châu G và anh Cao Mạnh C như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tại phiên tòa.
Về con chung: chị Nguyễn Thị Châu G và anh Cao Mạnh C có 01 con chung là Cao Duy P, sinh ngày 13 tháng 10 năm 2010. Khi ly hôn, chị có nguyện vọng xin nuôi dưỡng con chung Cao Duy P. Hiện nay anh c đang thi hành án có quan điểm đồng ý để chị G nuôi con chung, cũng phù hợp với điều kiện thực tế cháu p đang ở cùng chị G và được chị G chăm sóc từ bé, xét thấy nguyện vọng của chị G và của cháu P muốn duy trì cuộc sống ở ổn định như hiện nay nên cần chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị G.
Về tài sản chung và vay nợ chung: các đương sự không yêu cầu tòa án giải quyết.
[3] Về án phí: chị Nguyễn Thị Châu G phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[4] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Châu G. Chị Nguyễn Thị Châu G được ly hôn với anh Cao Mạnh C.
2. Về con chung: giao con chung Cao Duy P, sinh ngày 13/10/2010 cho chị Nguyễn Thị Châu G trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Anh C không phải cấp dưỡng cho con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: chị Nguyễn Thị Châu G phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhung được trừ vào số tiền nộp tạm ứng án phí chị G đã nộp tại biên lai thu tiền số 0002076 ngày 20 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Chị G đã nộp đủ án phí.
Án xử sơ thẩm, công khai có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn, báo cho biết nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 17/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 17/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về