Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 142/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 142/2021/HNGĐ-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 09/8/2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 44/2021/TLST-HNGĐ, ngày 23 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 22 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Bàn Văn Th, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn Tr, xã Phù L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Bị đơn: Chị Trương Thị Ph, sinh năm 1998;

Địa chỉ: Thôn Tr, xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang (Anh Th và chị Ph đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Bàn Văn Th trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Trương Thị Ph chung sống với nhau từ năm 2014 và có đăng ký kết hôn với nhau ngày 30/9/2016 tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán địa phương . Cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, đến năm 2019 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2019 đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Nay anh xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị Ph, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Trương Thị Ph.

- Về con chung: Anh và chị Trương Thị Ph có 01 con chung là cháu Bàn Khánh Nh, sinh ngày 20 tháng 9 năm 2014, hiện đang ở cùng với anh. Sau khi ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung đến khi trưởng thành và không yêu cầu chị Ph phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Anh Th xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

- Về vay nợ chung: Anh Th xác định không có, không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại đơn xin xét xử vắng mặt chị Trương Thị Ph trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Bàn Văn Th kết hôn với nhau năm vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 30/9/2016, cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã sống ly thân nhau. Nay anh Th xin ly hôn với chị, chị xác định không còn tình cảm và không thể chung sống cùng anh Th được, nên nhất trí với yêu cầu xin ly hôn của anh Th.

- Về con chung: Chị và anh Th có 01 con chung là cháu Bàn Khánh Nh, sinh ngày 20/9/2014, hiện đang ở cùng anh Th, sau khi ly hôn chị nhất trí để anh Th nuôi dưỡng đến khi trưởng thành và chị có quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn anh Th không được cản trở.

- Về tài sản chung: Chị Ph không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Chị Ph xác định không có, không yêu cầu giải quyết * Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Anh Bàn Văn Th và chị Trương Thị Ph kết hôn với nhau từ năm 2016 có đăng ký kết hôn vào ngày 30/9/2016 tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Hiện anh Th và chị Ph đã sống ly thân, mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Th và chị Ph đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào các quy định của Luật hôn nhân và gia đình đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xi n ly hôn của anh Th và xử cho anh Bàn Văn Th được ly hôn với chị Trương Thị Ph. Về con chung đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Bàn Khánh Nh, sinh ngày 20/9/2014 cho anh Bàn Văn Th được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc anh Bàn Văn Th phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Bàn Văn Th và chị Trương Thị Ph đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Bàn Văn Th và chị Trương Thị Ph chung sống với nhau từ năm 2014 và có đăng ký kết hôn với nhau ngày 30/9/2016 tại UBND xã L, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục, tập quán của địa phương. Như vậy hôn nhân giữa anh Bàn Văn Th và chị Trương Thị Ph là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án anh Th xác định cuộc sống chung vợ chồng ban đầu hạnh phúc, nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng không thể hòa hợp được, nên vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2019 đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau.

Hội đồng xét xử thấy rằng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Th và chị Ph. Khi mâu thuẫn xảy ra vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, trong thời gian sống ly thân vợ chồng không quan tâm gì đến nhau. Vì vậy có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Th và chị Ph đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể tồn tại được một gia đình ấm no, bình đẳng, hạnh phúc và tiến bộ. Ngoài ra quá trình giải quyết vụ án chị Ph cũng nhất trí với yêu cầu xin ly hôn của anh Th. Do đó cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Th với chị Ph là phù hợp với quy định tại Điều 56 - Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Bàn Văn Th và chị Trương Thị Ph có 01 con chung là cháu Bàn Khánh Nh, sinh ngày 20/9/2014, hiện đang ở cùng anh Th. Quá trình giải quyết vụ án anh Th có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi trưởng thành. Chị Ph nhất trí để anh Th nuôi dưỡng con chung với lý do hiện đang đi làm ăn xa. Do vậy để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của cháu Nh cần giao cháu Bàn Khánh Nh cho anh Bàn Văn Th được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật. Do anh Th không yêu cầu chị Ph phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Anh Th và chị Ph cùng xác định không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vay nợ chung: Anh Th và chị Ph cùng xác định không có không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Anh Bàn Văn Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 28; 147; 207; 227; 228; 235; 238; 266; 267; 271; 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Bàn Văn Th được ly hôn với chị Trương Thị Ph.

- Về con chung: Giao cháu Bàn Khánh Nh, sinh ngày 20/9/2014 cho anh Bàn Văn Th được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Chị Trương Thị Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

- Về án phí: Anh Bàn Văn Th phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0002428, ngày 23/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, anh Th đã nộp đủ án phí.

Chị Trương Thị Ph không phải chịu án phí.

Anh Th và chị Ph được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được hay niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 142/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:142/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;