Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 12/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 16/7/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; xét xử sơ thẩm công khai vụ thụ lý số: 68/2021/TLST-HNGĐ ngày 27/4/2021, về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 18/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1994;

HKTT: Thôn Đ, xã Y, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Tạm trú: Thôn T, xã V, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Vũ Khắc H, Luật sư- Văn phong Luật sư Đại Hải Thuỷ, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.

Địa chỉ: Số 12, tổ b, thị trấn Đ, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Anh Tô Văn T, sinh năm 1992;

HKTT: Thôn Đ, xã Y, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. (Các đương sự có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Oanh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Oanh kết hôn với anh Tô Văn Thanh, sinh năm 1992; HKTT: Thôn Đức Lân, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Trước khi cưới hai bên có được tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 23/10/2012 tại UBND xã Yên Phụ, huyện Yên Phong. Sau ngày cưới chị có về làm dâu nhà anh Thanh, vợ chồng ăn chung với bố mẹ chồng.

Vợ chồng chung sống hoà thuận thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh Thanh chơi bời, cờ bạc, có người đàn bà khác, đánh đập chị Oanh. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng ly thân từ tháng 12/2019 (dương lịch) đến nay. Chị Oanh về nhà ở cùng bố mẹ đẻ ở Thôn Tiền Thôn, xã Văn Môn. Vợ chồng mâu thuẫn hai bên gia đình có biết, có khuyên cho vợ chồng về với nhau nhưng không được. Nay chị Oanh xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Thanh.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Tô Văn Thịnh, sinh ngày 20/6/2013, cháu Tô Văn Vinh, sinh ngày 24/6/2015, hiện nay cả 2 cháu đang ở với chị Oanh. Khi ly hôn chị Oanh xin nuôi cả hai con và yêu cầu anh Thanh cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000đồng/1tháng/1 cháu cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi. Tại phiên toà chị xin rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay chị làm thợ đồ gỗ mỹ nghệ lương tháng trung bình 10.000.000 đồng; về chỗ ở: Trường hợp chị ly hôn và được nuôi con chung chị được bố mẹ tạo điều kiện cho ở cùng, chăm sóc con giúp chị.

Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ngoài ra, chị Oanh không có ý kiến hay yêu cầu gì khác. Bị đơn anh Tô Văn Thanh trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh công nhận lời khai của chị Oanh về thời gian và điều kiện kết hôn như chị Oanh trình bày là đúng. Trong quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng ly thân từ tháng 12/2019 đến nay. Vợ chồng mâu thuẫn hai bên gia đình có biết, có khuyên cho vợ chồng về với nhau nhưng không được. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị Oanh xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như chị Oanh trình bày là đúng. Khi ly hôn chị Oanh xin nuôi cả 2 con chung anh không đồng ý. Anh đề nghị Toà án giải quyết mỗi vợ chồng nuôi 1 cháu. Anh xin nuôi cháu Thịnh để cho chị Oanh nuôi cháu Vinh. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu Toà án giải quyết. Chị Oanh xin nuôi cả 2 cháu và yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000đồng/1tháng/1 cháu cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi anh không đồng ý. Tại phiên toà chị xin rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung anh không có ý kiến gì. Về điều kiện nuôi con chung: Hiện nay anh làm nghề tự do (trông hồ câu cho anh trai chị Oanh), thu nhập hàng tháng từ 5.000.000 đồng - 7.000.000 đồng; về chỗ ở anh là con trai duy nhất trong gia đình, đang ở cùng bố mẹ, nếu được nuôi dưỡng 01 con chung anh đủ điều kiện nuôi.

Về tài sản chung, công nợ: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Ngoài ra anh không có ý kiến yêu cầu gì khác.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Nhất trí với ý kiến của nguyên đơn, đề nghị Toà án tạo điều kiện xem xét giải quyết các yêu cầu đảm bảo quyền lợi cho nguyên đơn, tạo điều kiện cho chị Oanh được nuôi 2 con chung. Chị Oanh đầy đủ điều kiện nuôi cả 2 con về thu nhập và chỗ ở, điều kiện nuôi dạy con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của đương sự là đúng pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Oanh, đề nghị Toà án xử cho chị Nguyễn Thị Oanh được ly hôn với anh Tô Văn Thanh. Về con chung: Giao cháu Tô Văn Thịnh, sinh ngày 20/6/2013 cho chị Oanh trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Tô Văn Vinh, sinh ngày 24/6/2015 cho anh Thanh trực tiếp nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét. Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có, không đặt ra xem xét. Về án phí: Chị Oanh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Oanh có đơn xin ly hôn, theo đúng mẫu và nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định. Anh Thanh cư trú tại thôn Đức Lân, xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Yên Phong thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Oanh và anh Tô Văn Thanh kết hôn vào năm 2012 trên cơ sở được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Yên Phụ. Khi kết hôn anh chị đủ điều kiện và tuân thủ đúng quy định pháp luật. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị Oanh và anh Thanh là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Sau ngày kết hôn, chị Oanh và anh Thanh đều trình bày vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, trầm trọng nhất là vào tháng 12/2019, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị Oanh trình bày anh Thanh chơi bời, cờ bạc, có người đàn bà khác, đánh đập chị. Vợ chồng ly thân từ tháng 12/2019 đến nay không quan tâm tới nhau, không có biện pháp gì hàn gắn tỉnh cảm, bỏ mặc mâu thuẫn vợ chồng. HĐXX nhận định mâu thuẫn vợ chồng chị Oanh, anh Thanh là trầm trọng, anh chị ly thân nhau đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, chị Oanh xin ly hôn anh Thanh đồng ý nên cần chấp đơn xin ly hôn của chị Oanh.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Tô Văn Thịnh, sinh ngày 20/6/2013, cháu Tô Văn Vinh, sinh ngày 24/6/2015. Ly hôn chị Oanh xin nuôi cả 2 con chung, yêu cầu anh Thanh cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000đồng/1tháng/1 cháu cho đến khi các cháu tròn 18 tuổi, tuy nhiên tại phiên toà chị tự xin rút yêu cầu cấp dưỡng. Anh Thanh đề nghị Toà án giải quyết mỗi vợ chồng nuôi 1 con chung. Anh xin nuôi cháu Thịnh để cho chị Oanh nuôi cháu Vinh. Cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu Toà án giải quyết. Xét việc giao con cho ai cần đảm bảo cho các cháu đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, học tập và xét nguyện vọng của các cháu. Toà án đã tiến hành lấy lời khai nguyện vọng của cháu Tô Văn Thịnh đủ 7 tuổi dưới sự chứng kiến của chị Oanh, nếu bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng được ở với chị Oanh. Tuy chị Oanh có nguyện vọng tha thiết xin nuôi cả 2 con chung, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị cũng đã cung cấp đầy đủ giúp chị Oanh đủ điều kiện thu nhập, chỗ ở cho việc nuôi con, nhưng việc giao con chung cũng cần đảm bảo quyền lợi cho cả bị đơn, anh Thanh cũng có nguyện vọng xin nuôi 01 con chung, mặc dù Hội đồng xét xử đã phân tích, hoà giải cho cả hai vợ chồng nhiều lần và tại phiên toà nhưng không được vì vậy Hội đồng quyết định giao cho mỗi người nuôi dưỡng 01 con chung là phù hợp. Cháu Tô Văn Thịnh trên 7 tuổi có nguyện vọng được ở với chị Oanh nên giao cháu Thịnh cho chị Oanh trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Vinh cho anh Thanh trực tiếp nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Oanh phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 235, 262, 264, 266 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Oanh. Chị Nguyễn Thị Oanh được ly hôn với anh Tô Văn Thanh.

Về con chung: Giao cháu cháu Tô Văn Thịnh, sinh ngày 20/6/2013 cho chị Nguyễn Thị Oanh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Tô Văn Vinh, sinh ngày 24/6/2015 cho anh Tô Văn Thanh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn. Người trực tiếp nuôi con chung cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con sau khi ly hôn.

Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Oanh phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm (Xác nhận chị Oanh đã nộp 300.000đồng tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2020/0001273 ngày 26/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Phong).

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 12/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;