Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 103/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨNG LIÊM, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 103/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 246/2022/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 06 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Giao T, sinh năm: 1992 (có mặt). Địa chỉ cư trú: ấp Q, xã P, huyện V, tỉnh L.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng D, sinh năm: 1994 (vắng mặt). Địa chỉ cư trú: ấp Q, xã P, huyện V, tỉnh L.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Thị N, sinh năm: 1967 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: ấp Q, xã P, huyện V, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Giao T trình bày:

- Về mối quan hệ hôn nhân: chị T và anh D do mai mối, có tìm hiểu nhau rồi đi đến hôn nhân, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào tháng 3 năm 2021 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hiếu Phụng ngày 18/02/2021.

Sau ngày cưới thì chị T và anh D sống chung với gia đình cha mẹ ruột của anh D tại ấp Q, xã P, huyện V, tỉnh L. Thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 4 năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh D thường xuyên đi chơi game dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cải với nhau, tình cảm dành cho nhau không còn. Đến ngày 17/01/2022 thì chị T về sống bên gia đình cha mẹ ruột cho đến nay. Trong thời gian chị T về sống bên gia đình cha mẹ ruột, anh D không có liên lạc gì với chị T để kêu chị quay về hàn gắn tình cảm.

Nay chị T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung vợ chồng không hạnh phúc nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng D.

- Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Có 13 chỉ vàng cưới (trong đó 12 chỉ vàng 24K và 01 chỉ vàng 18K, gồm: 01 dây chuyền 05 chỉ vàng 24K, 01 chiếc lắc 04 chỉ vàng 24k, 01 đôi bông tai 01 chỉ vàng 24K, 02 chiếc nhẫn cưới vàng 18K mỗi chiếc 0,5 phân và 02 chiếc nhẫn vàng 24K mỗi chiếc 01 chỉ do cha mẹ ruột chị T cho trong ngày cưới), sau ngày cưới thì chị T đã gửi số vàng trên cho bà Phan Thị N là mẹ ruột của anh D quản lý, nhưng hiện nay bà N đã giao lại số vàng trên cho anh D nên chị T yêu cầu anh D phải chia đôi số tài sản chung, mỗi người nhận 06 chỉ vàng 24K và 0,5 chỉ vàng 18K.

- Về nợ chung: chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Hoàng D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh D thống nhất theo lời trình bày của chị T về quá trình hình thành hôn nhân, anh và chị T có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P ngày 18/02/2021 như lời chị T trình bày là đúng.

Sau ngày cưới thì anh D và chị T sống chung tại nhà cha mẹ ruột của anh D tại ấp Q, xã P, huyện V, tỉnh L. Thời gian đầu anh chị chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 11 năm 2021 thì cha mẹ ruột của chị T xin phép cho chị T được về bên gia đình cha mẹ ruột chơi thì anh D và gia đình anh đồng ý nhưng chị T đã ở luôn bên gia đình cha mẹ ruột cho đến nay không trở về.

Giữa anh D và chị T không phát sinh mâu thuẫn gì trầm trọng dẫn đến chị T phải yêu cầu ly hôn. Nay đối với yêu cầu xin ly hôn của chị T thì anh D không đồng ý. Vì anh còn thương vợ, muốn vợ chồng hàn gắn tình cảm quay về sống đoàn tụ.

- Về con chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài saûn chung: Trong ngày cưới gia đình cha mẹ ruột anh D có cho vợ chồng anh chị số vàng cưới gồm 10 chỉ vàng 24K, 01 chỉ vàng 18K. Cha mẹ ruột của chị T cho 02 chỉ vàng 24K. Tổng cộng là 13 chỉ vàng cưới gồm: 01 dây chuyền 05 chỉ vàng 24K, 01 chiếc lắc 04 chỉ vàng 24K, 01 đôi bông tai 01 chỉ vàng 24K, 02 chiếc nhẫn cưới vàng 18K mỗi chiếc 0,5 chỉ và 02 chiếc nhẫn vàng 24K mỗi chiếc 01 chỉ. Sau ngày cưới thì chị T có gửi cho mẹ ruột của anh D là bà Phan Thị N cất giữ dùm. Trong thời gian chị T về sinh sống bên gia đình cha mẹ ruột thì anh D đã lấy lại số vàng trên để bán trả số nợ mà anh đã mượn trước khi kết hôn để mua vàng cho trong ngày cưới. Hiện nay chỉ còn 01 chỉ vàng 24K là của gia đình chị T cho, thì anh D đồng ý giao lại cho chị T quản lý, sử dụng.

- Về nợ phải thu, phải trả: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị N trình bày:

Trước đây bà N có cho vợ chồng con trai là Nguyễn Hoàng D và con dâu là Nguyễn Thị Giao T số vàng cưới 10 chỉ vàng 24K, 01 chỉ vàng 18K. Ngoài ra, gia đình mẹ ruột của chị T có cho 02 chỉ vàng 24K. Tổng cộng có 12 chỉ vàng 24K và 01 chỉ vàng 18K. Sau ngày cưới thì chị T có gửi cho bà N cất giữ dùm.

Tuy nhiên vào khoảng tháng 01/2022 thì chị T có xin về nhà cha mẹ ruột tại ấp Quang Thạnh, xã Hiếu Phụng để chơi và ở luôn không quay trở về.

Anh Nguyễn Hoàng D đã hỏi bà N để nhận lại toàn bộ số vàng mà chị T đã gửi trước đó, nhằm mục đích bán trả nợ, số nợ mà anh đã mượn dùng để mua vàng cho trong ngày cưới. Hiện nay bà không còn giữ số tài sản chung của anh D và chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] chị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long giải quyết ly hôn, chia tài sản chung với anh D. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vũng Liêm.

Bị đơn anh Nguyễn Hoàng D và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị N đã được Tòa án đã triệu tập tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị T và anh D do mai mối rồi đi đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hiếu Phụng, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long ngày 18 tháng 02 năm 2021 và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 08 ngày 18 tháng 02 năm 2021 nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận là vợ chồng.

Xét thấy, chị T và anh D đã có nhiều mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống hôn nhân, anh D không đồng ý ly hôn với chị T vì anh còn thương vợ, anh muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng anh chị đã sống ly thân trong thời gian dài mà không thể hàn gắn đoàn tụ được, đã cho thấy mâu thuẫn trong hôn nhân giữa chị T và anh D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T là phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Giao T và anh Nguyễn Hoàng D thống nhất xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung:

[4.1] chị T, anh D thống nhất tài sản chung của anh chị gồm có 13 chỉ vàng cưới (12 chỉ vàng 24k và 1 chỉ vàng 18k, trong đó gồm có: 01 dây chuyền 05 chỉ vàng 24K, 01 chiếc lắc 04 chỉ vàng 24k, 01 đôi bông tai 01 chỉ vàng 24K, 02 chiếc nhẫn cưới vàng 18K mỗi chiếc 0,5 phân và 02 chiếc nhẫn vàng 24K mỗi chiếc 01 chỉ); chị T, anh D và bà N đều thống nhất khi chị T về nhà cha mẹ ruột của chị thì toàn bộ số vàng này do bà N giữ, sau đó bà N đã đưa lại vàng cho anh D. Đây là các vấn đề đương sự đã thống nhất và không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4.2] Xét yêu cầu của chị T về việc yêu cầu chia đôi số tài sản chung là 13 chỉ vàng (12 chỉ vàng 24K và 01 chỉ vàng 18K). Anh D không đồng ý chia đôi số tài sản chung theo yêu cầu của chị T vì sau khi chị T đi thì anh đã lấy lại số vàng để bán trả nợ tiền mua vàng cưới trước khi kết hôn với chị T, hiện tại chỉ còn 01 chỉ vàng 24K anh đồng ý giao lại cho chị T. Số nợ mà anh D trình bày là hình thành trước khi anh kết hôn với chị T, anh D cũng thừa nhận khi anh bán vàng cũng không có hỏi ý kiến của chị T, anh D cũng không chứng minh được khoản nợ trình bày là nợ chung của anh và chị T. Từ đó đã có cơ sở để khẳng định nợ mà anh D trình bày là nợ riêng của anh D, chị T không phải có nghĩa vụ cùng trả với anh; Chính vì vậy, yêu cầu chia đôi tài sản chung là 13 chỉ vàng (12 chỉ vàng 24K và 01 chỉ vàng 18K), mỗi người nhận 6 chỉ vàng 24K và 0,5 chỉ vàng 18K của chị T là có cơ sở để chấp nhận, phù hợp theo Điều 59 của luật hôn nhân và gia đình.

Vì vậy, chị Nguyễn Thị Giao T và anh Nguyễn Hoàng D mỗi người được nhận 06 chỉ vàng 24K và 0,5 chỉ vàng 18K cho nên anh Nguyễn Hoàng D phải có nghĩa vụ vụ giao lại cho chị Nguyễn Thị Giao T 06 chỉ vàng 24K và 0,5 chỉ vàng 18K.

[ 5] Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Nguyễn Thị Giao T và anh Nguyễn Hoàng D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Án phí sơ thẩm:

Chị Nguyễn Thị Giao T phải nộp 300.000đ án phí sơ thẩm về hôn nhân và gia đình và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch về chia tài sản chung là 5% x (6 x 5.200.000đ + 0,5 x 3.800.000đ) = 1.655.000đ, tổng cộng 1.955.000đ.

Anh Nguyễn Hoàng D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch về chia tài sản chung là 5% x (6 x 5.200.000đ + 0,5 x 3.800.000đ) = 1.655.000đ.

(Giá vàng làm cơ sở tính án phí: vàng 24K là 5.200.000đ/chỉ và vàng 18K là 3.800.000đ/chỉ).

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 217, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 33, Điều 56, Đều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Giao T.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Giao T được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng D.

- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Giao T và anh Nguyễn Hoàng D thống nhất xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về tài sản chung: Chia tài sản chung giữa chị Nguyễn Thị Giao T và anh Nguyễn Hoàng D là 12 (mười hai) chỉ vàng 24K và 01 (một) chỉ vàng 18K. Chị Nguyễn Thị Giao T và anh Nguyễn Hoàng D mỗi người được nhận 06 (sáu) chỉ vàng 24K và 0,5 (không phẩy năm) chỉ vàng 18K. Buộc anh Nguyễn Hoàng D phải có nghĩa vụ giao lại cho chị Nguyễn Thị Giao T 06 (sáu) chỉ vàng 24K và 0,5 (không phẩy năm) chỉ vàng 18K.

- Về nợ chung phải thu, phải trả: Chị Nguyễn Thị Giao T và anh Nguyễn Hoàng D thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Án phí sơ thẩm:

Buộc chị Nguyễn Thị Giao T phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm về hôn nhân và gia đình và 1.655.000đ (một triệu sáu trăm năm mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, tổng cộng: 1.955.000đ (một triệu chín trăm năm mươi lăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.175.000đ (một triệu một trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu số N0 0008308 ngày 10 tháng 5 năm 2022 của Chi cục thi hành án Dân sự huyện Vũng Liêm. Buộc chị Nguyễn Thị Giao T phải nộp thêm 780.000đ (bảy trăm tám mươi nghìn đồng).

Buộc anh Nguyễn Hoàng D phải nộp 1.655.000đ (một triệu sáu trăm năm mươi lăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 103/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:103/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vũng Liêm - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;