Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 101/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 101/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/11/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 120/2021/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 182/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thị Y, sinh năm: 1989 (có đơn đề nghị vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp D, xã N, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Danh H, sinh năm: 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp D, xã N, huyện GR, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08/10/2020 và quá trình giải quyết vụ án, chị Thị Y là nguyên đơn trình bày:

Chị Y và anh H tự nguyện kết hôn tháng 10/2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện GR. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh H thường xuyên uống rượu và kiếm chuyện mắng chửi, đánh đập vợ con. Cuối năm 2012, chị Y bỏ nhà đi tự chấm dứt quan hệ vợ chồng và sống ly thân với anh H cho đến nay, không có liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Quá trình chung sống chị Y và anh H có một người con là cháu Danh X, sinh ngày 30/7/2010. Ngoài ra, chị Y xác định chị có một người con riêng là cháu Thị Y X1, sinh ngày 15/4/2015, cháu X và cháu X1 do chị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị Y xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh H nên cương quyết yêu cầu được ly hôn; về con chung: Cháu Danh X, sinh ngày 30/7/2010, chị Y yêu cầu được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng chị có đủ điều kiện nuôi con nên không yêu cầu anh H cấp dưỡng; đối với cháu X1 là con riêng của chị Y nên chị Y nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản và nợ chung chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Danh H là bị đơn: Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị Y, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để Tòa án xem xét.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và của Người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của chị Y đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh H là bị đơn chưa thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị Y và anh H tự nguyện kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn trể hạn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện GR nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Chị Y xác định thời gian đầu chung sống hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do không hợp tính tình, anh H thường xuyên uống rượu và kiếm chuyện mắng chửi, đánh đập vợ con. Cuối năm 2012, chị Y và anh H tự chấm dứt quan hệ hôn nhân cho đến nay không còn liên hệ với nhau, quá trình giải quyết vụ án chị Y xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh H, điều này cho thấy hôn nhân của chị Y và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, việc chị Y yêu cầu được ly hôn với anh H là có cơ sở, anh H không có ý kiến phản đối, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y đối với anh H.

Về con: Chị Y xác định chị và anh H có một người con chung là cháu Danh X, sinh ngày 30/7/2010 từ trước đến nay do chị Y chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định đảm bảo sự phát triển về mọi mặt. Mặt khác, cháu X (trên 07 tuổi) có nguyện vọng chung sống với mẹ là chị Y. Căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận giao cháu X cho chị Y được quyền nuôi dưỡng. Đối với cháu Thị Y X1, sinh ngày 15/4/2015 chị Y xác định là con riêng của chị, chị nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét, đề nghị ghi nhận việc chị Y nhận trách nhiệm đối với cháu X1. Trường hợp có tranh chấp về việc xác định cha cho con hoặc con cho cha thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản và nợ chung chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị không xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Thị Y yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Danh H, đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh Danh H là bị đơn cư trú tại huyện GR, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H. Tuy nhiên, anh H không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị Y giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Y có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị Y và anh H.

[2]. Về nội dung vụ án: Chị Thị Y và anh Danh H kết hôn tháng 10/2009, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã N, huyện GR, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 02/02/2012 nên quan hệ hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án, chị Y xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do không hợp tính tình, anh H thường xuyên uống rượu và kiếm chuyện mắng chửi, đánh đập vợ con. Cuối năm 2012, chị Y và anh H tự chấm dứt quan hệ vợ chồng không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không có liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, chị Y và anh H đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Kết quả Tòa án xác minh về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị Y và anh H tại nơi cư trú, Trưởng ấp D, xã N, huyện GR cho biết: Ban lãnh đạo ấp không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị Y và anh H. Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Y và anh H nhưng không đạt kết quả do anh H vắng mặt, chị Y xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh H nên cương quyết yêu cầu ly hôn, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị Y và anh H đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị Y yêu cầu ly hôn với anh H là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Chị Y xác định chị và anh H có một người con chung là cháu Danh X, sinh ngày 30/7/2010. Xét yêu cầu nuôi con khi ly hôn của chị Y, Hội đồng xét xử thấy rằng: Cháu X từ trước đến nay do chị Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định đảm bảo sự phát triển về mọi mặt và chị Y xác định có thu nhập ổn định đủ điều kiện nuôi con. Mặt khác, cháu X (trên 07 tuổi) theo biên bản ghi nguyện vọng tại Tòa án ngày 21/6/2021, cháu có nguyện vọng chung sống với mẹ là chị Y, anh H không có ý kiến phản đối yêu cầu nuôi con khi ly hôn của chị Y. Do đó, căn cứ Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận để chị Y được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cháu X, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Y không yêu cầu. Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Anh H được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Đối với cháu Thị Y X1, sinh ngày 15/4/2015 chị Y xác định là con riêng của chị và do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chị đề nghị Tòa án ghi nhận việc chị nhận trách nhiệm nuôi dưỡng cháu X1 không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy, đề nghị của chị Y phù hợp với quy định của pháp luật và nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu X1, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của chị Y nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu X1. Trường hợp có tranh chấp về việc xác định cha cho con hoặc con cho cha (đối với cháu X1) thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

Về tài sản và nợ chung chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 96, điểm a, b khoản 1 Điều 238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Thị Y đối với anh Danh H.

2. Về con: Chị Thị Y được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Danh X, sinh ngày 30/7/2010. Anh Danh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Y không yêu cầu, trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Anh H được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Ghi nhận việc chị Thị Y nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Thị Y X1, sinh ngày 15/4/2015. Trường hợp có tranh chấp về việc xác định cha cho con hoặc con cho cha (đối với cháu X1) thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

3. Về án phí: Chị Thị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) do Trần Thanh F nộp thay, theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002199 ngày 19/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện GR, tỉnh Kiên Giang, chị Y đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Thị Y và anh Danh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 101/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:101/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;