Bản án 100/2020/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 100/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 68/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/8/2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Huy H, sinh năm 1985;

Địa chỉ cư trú: Thôn 3, xã CH, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1989;

Địa chỉ cư trú trước xuất cảnh: Thôn N, xã N, huyện T, tỉnh Nghệ An; Địa chỉ cư trú hiện tại: Đài Loan; vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn trình bày, bản tự khai, đơn đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn anh Trần Huy H trình bày:

Anh và chị Đặng Thị T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã CH, huyện CX, tỉnh Hà Tĩnh vào ngày 16/11/2010. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung một thời gian, đến năm 2015 thì chị T đi xuất khẩu lao động sang Đài Loan còn anh ở Việt Nam. Do vợ chồng sống xa nhau nên tình cảm phai nhạt dần và không còn quan tâm đến nhau nữa.

Anh tự nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên anh có liên lạc với chị T về Việt Nam để giải quyết ly hôn nhưng chị T không về và không cung cấp địa chỉ của chị ở Đài Loan cho anh biết. Do đó, anh làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Huy L, sinh ngày 02/01/2013. Hiện con chung đang ở với anh và do anh trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu ly hôn, anh xin nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Đặng Thị T hiện đang ở Đài Loan nhưng không rõ địa chỉ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Đặng Thị T thông qua bà Nguyễn Thị T1 (là mẹ đẻ của chị T) đến lần thứ hai mà thân nhân của chị Đặng Thị T cũng không cung cấp địa chỉ của chị Đặng Thị T cho Tòa án biết. Đồng thời, cho đến nay, chị Đặng Thị T cũng không có văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án và vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ và xét xử vụ án vắng mặt các đương sự bảo đảm tuân thủ đẩy đủ quy định của pháp luật. Trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị T1 (mẹ đẻ của chị Đặng Thị T) cho biết: Chị T hiện đang lao động ở Đài Loan, thỉnh thoảng chị T có liên lạc điện thoại về cho bà nhưng không nói rõ địa chỉ cư trú ở Đài Loan nên bà không biết nơi cư trú cụ thể của chị T ở Đài Loan để cung cấp cho Tòa án. Việc chị Đặng Thị T vắng mặt được xác định là cố tình giấu địa chỉ. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Huy H, cho anh Trần Huy H được ly hôn với chị Đặng Thị T. Về con chung: Giao cho anh Trần Huy H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Huy L, sinh ngày 02/01/2013 đến lúc đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh H không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết. Về tài sản chung: Anh H không yêu cầu nên đề nghị không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Vụ án ly hôn không có tranh chấp con chung, tài sản chung nhưng Tòa án phải tiến hành thu thập chứng cứ nên thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết: Anh Trần Huy H có địa chỉ cư trú tại tỉnh Nghệ An, Việt Nam làm đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đặng Thị T hiện cư trú ở nước ngoài; trước xuất cảnh, chị T có địa chỉ cư trú tại tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại Điều 37, Điều 40, Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về thủ tục hòa giải: Vụ án không tiến hành hòa giải được vì bị đơn chị Đặng Thị T không thể tham gia hòa giải được do vắng mặt tại nơi cư trú và hiện đang ở nước ngoài. Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng chị Đặng Thị T vẫn cố tình vắng mặt. Về phía nguyên đơn anh Trần Huy H không yêu cầu hòa giải là phù hợp với quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn anh Trần Huy H đã nộp đơn khởi kiện xin ly hôn, viết bản tự khai và cung cấp đầy đủ chứng cứ, tài liệu cho Tòa án nhưng do bận công việc nên không tham gia phiên tòa được và đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Anh H phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về các tài liệu và chứng cứ mà anh đã cung cấp cho Tòa án. Bị đơn chị Đặng Thị T hiện đang ở nước ngoài nhưng không rõ địa chỉ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Đặng Thị T thông qua người thân là bà Nguyễn Thị Thanh là mẹ đẻ của chị T, gồm các văn bản: Thông báo thụ lý vụ án, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, quyết định hoãn phiên tòa. Đồng thời, yêu cầu chị Đặng Thị T tình bày ý kiến của mình về việc anh Trần Huy H có đơn xin ly hôn. Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của chị Đặng Thị T cũng không cung cấp địa chỉ, tin tức của chị Đặng Thị T cho Tòa án biết. Tòa án đã tiến hành xác minh qua thân nhân của chị Đặng Thị T thì được bà Nguyễn Thị T1 cho biết: Chị Đặng Thị T đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, gia đình và chị T chỉ liên lạc qua điện thoại với nhau. Đồng thời, chị T không cung cấp địa chỉ của chị ở Đài Loan cho bà T1 nên bà không thể cung cấp địa chỉ của chị T ở Đài Loan cho Tòa án được. Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đã mở phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất vào ngày 10 tháng 9 năm 2020 và lần thứ hai vào ngày 28 tháng 9 năm 2020 nhưng cả hai lần chị Đặng Thị T đều vắng mặt không có lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến cho Tòa án. Do đó, việc chị Đặng Thị T vắng mặt thuộc trường hợp cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo theo quy định tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn về việc giải quyết vụ án ly hôn có bị đơn là người Việt Nam ở nước ngoài không rõ địa chỉ. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, căn cứ vào khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Huy H và chị Đặng Thị T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Cẩm Huy, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tỉnh vào ngày 16/11/2010 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung một thời gian, đến năm 2015 thì chị T đi xuất khẩu lao động sang Đài Loan. Do vợ chồng sống xa nhau nên tình cảm phai nhạt dần và không còn quan tâm đến nhau nữa. Về phía anh H, tự nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên anh H có liên lạc với chị T về Việt Nam để giải quyết ly hôn nhưng chị T không về và không cung cấp địa chỉ của chị T ở Đài Loan cho anh H biết. Do đó, anh H làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An giải quyết cho anh được ly hôn với chị T. Xét thấy, hôn nhân giữa anh Trần Huy H và chị Đặng Thị T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh Trần Huy H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam nên chấp nhận.

[3] Về con chung: Anh Trần Huy H và chị Đặng Thị T có 01 con chung. Nếu ly hôn, anh H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến lúc trưởng thành. Nguyện vọng của anh H phù hợp với ý kiến của con và phù hợp với điều kiện thực tế về việc nuôi con. Vì hiện nay, chị Đặng Thị T đang ở nước ngoài và cố tình dấu địa chỉ; con chung của vợ chồng đang được anh H chăm sóc, nuôi dưỡng. Do đó, căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của anh H. Giao cho anh H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Huy L, sinh ngày 02/01/2013 đến lúc đủ 18 tuổi, trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Huy H không yêu cầu chị Đặng Thị T phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

[4] Về tài sản chung: Anh Trần Huy H không yêu cầu. Vì vậy, Tòa án không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Trần Huy H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 122; Điều 123; Điều 127 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 37; Điều 40; khoản 4 Điều 147; khoản 1, khoản 4 Điều 207; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của anh Trần Huy H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Huy H được ly hôn với chị Đặng Thị T.

2. Về con chung: Giao cho anh Trần Huy H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Huy L, sinh ngày 02/01/2013 đến lúc đủ 18 tuổi, trưởng thành. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Huy H không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Sau khi ly hôn, chị Đặng Thị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Anh Trần Huy H không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Anh Trần Huy H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng anh đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003317 ngày 05 tháng 5 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An. Anh Trần Huy H đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Huy H có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết. Chị Đặng Thị T có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 100/2020/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:100/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;