Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 09/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 09/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 154/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số11/2021/QĐST-HNGĐ ngày 09 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đỗ Văn Q, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh T, vắngmặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/8/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là anh Đỗ Văn Q tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 29/12/2014. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc từ khi kết hôn đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh Q chơi bời nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không đoàn tụ được. Chị T và anh Q đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 cho đến nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đỗ Văn Q.

Về con chung: Chị T khai vợ chồng có một con chung,cháu tên là Đỗ Duy K, sinh ngày 28/9/2015, hiện nay cháu K đang ở với chị. Chị T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị, chị đang làm giáo viên trường mầm non xã H, thu nhập hàng tháng khoảng 6.000.000 đồng đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai ngày 20/11/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Đỗ Văn Q trình bày: Giữa bị đơn và nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 29/12/2014. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc từ khi kết hôn đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi chửi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không đoàn tụ được. Anh Q và chị T đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 cho đến nay, thời gian sống ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị T đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh Q cũng đồng ý.

Về con chung: Anh Q khai vợ chồng có một con chung, cháu tên là Đỗ Duy K, sinh ngày 28/9/2015, hiện nay cháu K đang ở với chị T. Anh Q đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, hiện anh làm nghề cắt tóc thu nhập hàng tháng khoảng 10 triệu đồng, đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản: Anh Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Thu đề nghị Toà án giải quyết ly hôn với anh Q; đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là phù hợp với quy định tại Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Anh Đỗ Văn Q đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng anh Q là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Đỗ Văn Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Kết quả xác minh ngày 05/12/2020 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H, anh Q và chị T đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2020 cho đến nay. Như vậy, trong cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh Q luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột dẫn đến vợ chồng sống ly thân, từ khi ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung của vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị T được ly hôn anh Q là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị T và anh Q thừa nhận vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Đỗ Duy K, sinh ngày 28/9/2015. Cả chị T và anh Q đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu K, tuy nhiên từ khi vợ chồng sống ly thân cháu K do chị T nuôi dưỡng, mặt khác cháu K còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ, do đó giao cháu K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị T về việc không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Chị T và anh Q không yêu cầu Toà án giảiquyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Đỗ Văn Q.

2. Về con chung: Công nhận cháu Đỗ Duy K, sinh ngày 28/9/2015 là con chung của chị T và anh Q. Giao cháu K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh Q không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị T.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0009202ngày13/10/2020 tại Chi cụcThi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Q có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 09/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;