Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YS, TỈNH TQ

BN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17/01/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện YS mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 267/2021/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 10 năm 2021, về việc: Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12/11/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 64/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/12/2021, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Ma Thị P, sinh năm 2001 Địa chỉ: Thôn TK, xã PB, huyện CH, tỉnh TQ.

- Bị đơn: Anh Phạm Minh C, sinh năm 1998.

Đa chỉ: Thôn 11, xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ.

(Chị P có đơn xin xét xử vắng mặt, anh C vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Ma Thị P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Minh C tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, khi kết hôn có tổ chức cưới hỏi và đăng ký kết hôn ngày 17/6/2020 tại Ủy ban nhân dân xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống chung cùng gia đình nhà anh C tại thôn 11, xã L Q, huyện Y S, tỉnh TQ. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hòa thuận bình thường, đến cuối năm 2020 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn là do tính tình hai bên không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm, lối sống, chị và anh Tình sống ly thân từ đầu năm 2021 đến nay. Nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không còn tình cảm với nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Yên Sơn giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Minh C.

Về con chung: Chị và anh Cường có 01 con chung, là cháu Phạm Phương A, sinh ngày 13/01/2021, hiện nay cháu A đang ở với chị, sau khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Phương A và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định chị và anh C không có tài sản chung, không vay nợ ai cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành gửi giấy triệu tập nhưng anh C không đến Tòa án tham gia tố tụng theo uy định của pháp luật, Tòa án đã tiến hành đi xác minh, thu thập chứng cứ tại địa phương được biết, hiện anh C vắng mặt tại nơi cư trú nên Tòa án đã tiến hành niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các tài liệu khác tại địa phương nơi anh C cư trú để anh C đến Tòa án giải quyết vụ án, nhưng anh C đều vắng mặt và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, chị P có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải. Do vậy, Tòa án không tiến hành phiên hòa giải và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện: Chị Ma Thị P và anh Phạm Minh C là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn vào ngày 17/6/2020 tại Ủy ban nhân dân xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chị P, anh C về chung sống với gia đình anh C tại thôn 11, xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, hoà thuận bình thường, đến cuối năm 2020 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do luôn bất đồng quan điểm sống, quan điểm làm ăn, kinh tế, anh C đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nên tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, không quan tấm đến nhau, chị P và anh C sống ly thân từ năm 2021 đến nay, hiện vợ chồng chị chị P và anh C không còn tồn tại một gia đình, hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được. Về con chung, vợ chồng chị P, anh C có 01 con chung là cháu Phạm Phương A, sinh ngày 13/01/2021, hiện nay cháu A đang ở với chị P. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng chị P, anh C không có tài sản chung, không có nợ chung. Về hộ khẩu thường trú của anh C, hiện anh C có hộ khẩu thường trú tại thôn 11, xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ, nay anh C đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà, khi đi làm ăn anh C không thông báo tạm trú, tạm vắng nên gia đình và địa phương không biết hiện anh C đang làm gì, ở đâu. Về thu nhập bình quân của chị P khoảng 200.000 đồng đến 250.000 đồng/1 ngày, còn anh C đi làm ăn xa địa phương không nắm được.

Chị P có đơn xin xét xử vắng mặt, chị vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến như đã trình bày, về quan hệ hôn nhân, chị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho chị được ly hôn với anh Phạm Minh C. Về con chung, chị P yêu cầu được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Phạm Phương A, sinh ngày 13/01/2021 và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung, chị xác định không có tài sản chung, không vay nợ ai cũng không cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định. Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Ma Thị P được ly hôn với anh Phạm Minh C. Về con chung, giao cháu Phạm Phương A, sinh ngày 13/01/2021 cho chị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, nợ chung, chị P xác định không có nên không đề nghị xem xét giải quyết. Về án phí, chị Ma Thị P phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả làm việc tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa nguyên đơn chị Ma Thị P và anh Phạm Minh C là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Phạm Minh C có hộ khẩu thường trú tại thôn 11, xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ nên chị P khởi kiện xin ly hôn với anh C là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện YS theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình xác minh, thu thập chứng cứ với chính quyền địa phương được biết, anh C có hộ khẩu thường trú và hiện đang sống tại thôn 11, xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ. Địa phương cho biết, anh C có biết việc chị P kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn nhưng anh C không đến Tòa án để giải quyết. Anh C đi làm ăn xa nhưng không báo địa chỉ mới nên Công an, địa phương cũng như gia đình không nắm được. Tòa án đã gửi giấy triệu tập và tiến hành niêm yết thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại địa phương nơi anh C cư trú để anh C đến Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh C không đến Toà án giải quyết vụ việc, tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải anh C vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không nộp các văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, và các chứng cứ kèm theo. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Phạm Minh C.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Ma Thị P và anh Phạm Minh C là vợ chồng hợp pháp, có đăng ký kết hôn vào ngày 17/6/2020 tại Ủy ban nhân dân xã L Q, huyện YS, tỉnh TQ, trên cơ sở tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo tập quán địa phương, như vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chị Phương, anh Cường về sống tại gia đình nhà anh C tại thôn 11, xã LQ, huyện YS, tỉnh TQ. Thời gian đầu vợ chồng chị P, anh C sống hạnh phúc, hòa thuận bình thường, đến cuối năm 2020 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân dẫn tới mâu thuẫn là do vợ chồng luôn bất đồng quan điểm, lối sống, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn yêu thương, quý trọng nhau nữa, chị P và anh C đã sống ly thân từ đầu năm 2021 đến nay nên không còn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, xét quan hệ hôn nhân của chị P và anh C thấy rằng mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị P là có căn cứ, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P xử cho chị Ma Thị P được ly hôn với anh Phạm Minh C là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị Ma Thị P và anh Phạm Minh C có 01 con chung là cháu Phạm Phương A, sinh ngày 13/01/2021. Xét về điều kiện, hoàn cảnh để nuôi con chung chị Pvà anh C có điều kiện như nhau, tuy nhiên cháu Phạm Phương A dưới 36 (ba mươi sáu) tháng tuổi nên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định: Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con” để tuyên xử chấp nhận yêu cầu của chị P, giao cháu Phạm Phương A, sinh ngày 13/01/2021 cho chị Ma Thị P trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị P không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung nên anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị P xác định không có, không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Ma Thị P phải nộp án phí theo theo quy định tại điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Bị đơn không phải chịu án phí.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ma Thị P được ly hôn với anh Phạm Minh C.

2. Về con chung: Giao Phạm Phương A, sinh ngày 13/01/2021 cho chị Ma Thị P trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phạm Minh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Ma Thị P phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0003838, ngày 08 tháng 10 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện YS, tỉnh TQ. Anh Phạm Minh C không phải chịu án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Ma Thị P và anh Phạm Minh C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

555
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;