Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn và nuôi con số 37/2018/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH Đ

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 29 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 111/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2018 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị Bé N sinh năm 1998 (có mặt). Địa chỉ: Số nhà 651 ấp X, xã C huyện C, tỉnh Đ.

Bị đơn: Lê Thành T sinh năm 1987 (có mặt).

Địa chỉ: Số nhà 53 tổ C khóm 4 phường T thành phố C, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Bé N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng sống chung từ năm 2014 do mai mối và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới. Đến năm 2017 chị N, anh T đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân phường T cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/02/2017.

Sau ngày cưới vợ chồng sống cùng gia đình chồng vợ chồng cùng đi làm thu nhập đủ lo cho cuộc sống gia đình nhưng vợ chồng sống chung không hạnh phúc, anh T không phụ chị N chăm sóc con chung còn thường xuyên dùng bạo lực gia đình với chị N mỗi khi vợ chồng nói chuyện với nhau không có cải vả anh T cũng đánh chị N. Cha mẹ chồng biết anh T đánh chị N nhưng không can ngăn. Mẹ ruột chị N có đến nhà cha mẹ chồng chị N hàn gắn tình cảm nên vợ chồng sống chung lại với nhau.

Năm 2017 anh T nghĩ việc không tìm việc khác để làm tạo thu nhập cho gia đình và nhiều lần vợ chồng cải vả nhau. Khoảng tháng 7/2017 anh T chở chị N và con về nhà cha mẹ ruột chị N chơi con khóc anh T không chăm tiếp lại nắm đầu chị N đập vào tường và bỏ mẹ con chị N từ đó cho đến nay. Chị N không dám về nhà cha mẹ chồng và không dám sống chung cùng anh T. Hậu quả của hành vi bạo lực gia đình là sức khỏe của chị N bị suy giảm thường xuyên nhức đầu phải mua thuốc uống.

Tháng 10/2017 chị N nộp đơn khởi kiện xin ly hôn anh T đến xin chị N cho anh T cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng để cùng nuôi dưỡng chăm sóc con chung. Chị N đồng ý cho anh T cơ hội hàn gắn tình cảm nên hai lần nộp đơn đều rút đơn khởi kiện được Tòa án ban hành Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 150/2017/QĐST-HNGĐ ngày 22/11/2017 và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 01/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15/01/2018. Chị N có tạo cơ hội cho anh T đến thăm con nhưng anh T không đến thăm nom chăm sóc và nuôi dưỡng con bỏ chị N một mình nuôi con, anh T cũng không thay đổi tính tình đe dọa đánh chị N. Nay chị N không còn tình cảm với anh T kéo dài quan hệ hôn nhân cũng không hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn với anh T.

Con chung: Vợ chồng có một con chung tên Lê Thị B, sinh ngày 19/12/2015 hiện nay đang sống chung với chị N.

Hiện nay chị N đi làm Công ty Hùng Cá thu nhập mỗi tháng được khoảng 4.000.000 đồng đảm bảo cuộc sống của chị N và nuôi con. Đối với anh T chị N không biết anh T hiện nay đang làm nghề gì có đi làm hay không. Mỗi khi con gặp anh T đều khóc vì trước đây con chung có thấy anh T đánh chị N nên không đồng ý giao con chung cho anh T nuôi dưỡng. Chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung.

Cấp dưỡng nuôi con: Chị N yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng tính từ tháng 5/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Tài sản chung: Vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

- Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa anh Lê Thành T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị N sống chung từ năm 2015 do mai mối và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới. Do chị N chưa đủ tuổi kết hôn nên đến năm 2017 chị N, anh T mới đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân phường T cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 07/02/2017.

Quá trình sống chung cùng gia đình anh T vợ chồng rất hạnh phúc anh T và chị N cùng đi làm và cùng nuôi dưỡng con chung không có mâu thuẫn gì lớn và anh T không có hành vi bạo lực gia đình mẹ vợ không có đến hàn gắn tình cảm vợ chồng chị N không bị bệnh và không bị nhức đầu như lời trình bày của chị N. Tháng 7/2017 vợ chồng sống xa nhau đến nay không hàn gắn được tình cảm.

Khi chị N nộp đơn khởi kiện đến Tòa án thì anh T có nói chuyện với chị N yêu cầu cho anh T cơ hội hàn gắn tình cảm. Chị N đồng ý nên rút đơn khởi kiện hai lần và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Nhưng sau khi rút đơn anh T có đến nhà cha mẹ chị N thì cha mẹ chị N không mong muốn anh T đến nhà chị N thì dùng lời lẽ thô tục với anh T không tạo điều kiện cho anh T hàn gắn tình cảm và thăm con. Anh T không đồng ý ly hôn với chị N.

Con chung: Vợ chồng có một con chung tên Lê Thị B, sinh ngày 19/12/2015 hiện nay đang sống chung với chị N. Khi ly hôn, anh T yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung.

Hiện nay không biết chị N làm nghề gì không biết chị N nuôi con chung có tốt không vì mỗi lần thăm con chị N không cho thăm con. Anh T có báo chính quyền địa phương nhưng không có lập biên bản. Anh T hiện nay không có việc làm sống phụ thuộc vào gia đình.

Cấp dưỡng nuôi con: Trường hợp chị N nuôi con thì anh T không đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng tính từ tháng 5/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi theo yêu cầu của chị N. Nếu anh T được Tòa án cho nuôi con thì anh T không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Bé N và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn và nuôi con.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Địa chỉ của bị đơn tại thành phố C nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28 điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị N, anh T sống chung từ năm 2014 có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường T, thành phố C cấp giấy chứng nhận kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Xét thấy chị N cho rằng anh T không phụ chị N chăm con có hành vi bạo lực gia đình với chị N. Hậu quả là sức khỏe của chị N bị suy giảm thường xuyên bị nhức đầu phải uống thuốc điều trị. Lời trình bày của chị N không được anh T thừa nhận và chị N cũng không có chứng cứ nào khác chứng minh anh T có hành vi bạo lực gia đình.

Tại phiên Tòa anh T thừa nhận chị N có nộp đơn khởi kiện xin ly hôn hai lần nhưng đều rút đơn khởi kiện với lý do chị N đồng ý cho anh T cơ hội để hàn gắn tình cảm vợ chồn để cùng nuôi dạy con chung và Tòa án đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 150/2017/QĐST-HNGĐ ngày 22/11/2017 và Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 01/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15/01/2018. Đồng thời anh T cũng xác định không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị N và cũng đồng ý ly hôn với chị N nhưng phải có điều kiện cho anh T gặp mặt con chung và không đồng ý ký đơn ly hôn với chị N.

Xét thấy chị N đã cho anh T hai cơ hội để hàn gắn tình cảm nhưng vợ chồng không hàn gắn được tình cảm. Đến ngày 13/3/2018 chị N tiếp tục nộp đơn khởi kiện xin ly hôn không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với anh T và không còn tình cảm với anh T. Anh T có ý chí mong muốn ly hôn với chị N và xác định không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Vì vậy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng kéo dài quan hệ hôn nhân cũng không hạnh phúc. Vì vậy chị N khởi kiện xin ly hôn là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình “ …Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[5] Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Lê Thị B, sinh ngày 19/12/2015 hiện nay đang sống chung với chị N.

Chị N và anh T đều yêu cầu được nuôi con chung.

Xét thấy chị N trình bày vẫn tạo điều kiện cho anh T thăm và chăm sóc con chung. Hiện nay chị N đang làm ở Công ty Vĩnh Hoàn thu nhập khoảng 4.000.000 đồng/ tháng đảm bảo được điều kiện để nuôi con và cháu Mai chưa, sinh ngày 19/12/2015 chưa đủ 36 tháng tuổi là con gái và hiện đang sống chung với chị N. Anh T không có việc làm và không có thu nhập nào khác sống phụ thuộc vào gia đình. Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị N. Chị N được tiếp tục nuôi con chung.

Anh T cho rằng chị N không tạo điều kiện cho anh T thăm và chăm sóc con chung nhưng anh T không có cung cấp được chứng cứ chứng minh và chị N xác định vẫn tạo điều kiện cho anh T thăm con. Trường hợp chị N không tạo điều kiện cho anh T thăm con thì anh T có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người nuôi con theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Hai bên có quyền thăm nom trông nom chăm sóc giáo dục nuôi dưỡng con chung không bên nào được cản trở.

Cấp dưỡng nuôi con: Chị N yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng tính từ tháng 5/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Anh T không đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.000.000 đồng tính từ tháng 5/2018 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi theo yêu cầu của chị N.

Trường hợp anh T được Tòa án cho nuôi con chung thì anh T không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy anh T không được Tòa án chấp nhận được nuôi con chung nên phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định tại khoản 2 Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Chị N không cung cấp được thu nhập của anh T và cho rằng gia đình anh T có nhiều tài sản đảm bảo đủ điều kiện cho anh T cấp dưỡng nuôi con chung và thừa nhận anh T sống phụ thuộc vào gia đình. Chấp nhận yêu cầu của chị N, anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là ½ tháng lương cơ sở phương thức cấp dưỡng hàCng tháng thời gian tính từ tháng 5/2018 đến khi con chung đủ 18 tuổi.

[6] Tài sản chung: Vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí về hôn nhân và gia đình ly hôn. Anh T phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39, và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 56, khoản 1 Điều 81 khoản 3 Điều 82 và khoản 2 Điều 83, Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Bé N.

Chị Nguyễn Thị Bé N được ly hôn với anh Lê Thành T. Con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Bé N.

Chị Nguyễn Thị Bé N được tiếp tục nuôi con chung tên Lê Thị B sinh ngày 19/12/2015 hiện nay đang sống chung với chị N.

Hai bên có quyền thăm nom trông nôm chăm sóc giáo dục nuôi dưỡng con chung không bên nào được cản trở.

Cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Bé N.

Buộc anh Lê Thành T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng bằng ½ tháng lương cơ sở phương thức cấp dưỡng hàng tháng thời gian tính từ tháng 5/2018 đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Tài sản chung: Vợ chồng có tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Bé N phải chịu 300.000 đồng án phí về hôn nhân và gia đình ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003181 ngày 02/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C. Chị N đã nộp xong tiền án phí.

Anh Lê Thành T phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn và nuôi con số 37/2018/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;