Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp nuôi con số 89/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 89/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 84/2022/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2022 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022, Thông báo số 06/TB- TA ngày 24/3/2022 về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa và Quyết định hoãn phiên tòa số 132/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Trần Thị Ngọc T, sinh năm 1988; địa chỉ: số A, ấp M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

Bị đơn: Ông Đinh Quốc V, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Trần Thị Ngọc T trình bày, qua tìm hiểu, bà T và ông Đinh Quốc V kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang vào ngày 08/12/2014. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Đinh Ngọc Uyển N, sinh ngày 06/01/2016. Hiện tại, con chung đang được bà T nuôi dưỡng.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 04/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm sống và vấn đề tài chính. Vợ chồng không còn sống chung từ 10/2020 cho đến nay và không tới lui thăm nhau.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông V; yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Đinh Ngọc Uyển N, sinh ngày 06/01/2016, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi dạy con chung; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện bao gồm: Giấy chứng nhận kết hôn số TT 129/2014, quyển số 01, ngày 08/12/2014 do Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang cấp đối với bà Lê Trần Thị Ngọc T và ông Đinh Quốc V (bản sao); Giấy khai sinh số TT04/2016, quyển số 01, ngày 14/01/2016 do Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang cấp đối với Đinh Ngọc Uyển N (bản sao).

- Bị đơn ông Đinh Quốc V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, bà T và ông V chung sống, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa bà T, ông V hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, cãi vã do bất đồng quan điểm sống và vấn đề tài chính. Vợ chồng không còn sống chung từ tháng 10/2020 cho đến nay.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu ly hôn với ông V. Bà T, ông V không tạo điều kiện cho nhau hành gắn hạnh phúc. Ông V không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu ly hôn của bà T. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông V theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà T, giao cháu N cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con, do bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung, không có, không yêu cầu giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông V; bà T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Đinh Ngọc Uyển N; ông Đinh Quốc V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Lê Trần Thị Ngọc T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Đinh Quốc V. Đồng thời, ông V cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Đinh Quốc V đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông V theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Bà T và ông V tự nguyện kết hôn vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông V là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Bà T xác định, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 04/2016 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm sống và vấn đề tài chính. Bà T, ông V không còn sống chung từ tháng 10/2020 cho đến nay.

Xét thấy, xuất phát từ mâu thuẫn trong thời gian chung sống, bà T và ông V thường xuyên cãi vã và không còn sống chung từ tháng 10/2020 cho đến nay. Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bên cạnh đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho ông V nhưng ông V không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà T. Cho nên, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà T, ông V là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông V theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Bà T xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Đinh Ngọc Uyển N, sinh ngày 06/01/2016. Bà T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Xét thấy, con chung đang được bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho con chung, giúp con chung phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu N cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà T không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi dưỡng cháu N nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T, ông V không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông V không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; các điều Bộ  luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Trần Thị Ngọc T.

1. Về hôn nhân: Bà Lê Trần Thị Ngọc T được ly hôn với ông Đinh Quốc V.

Giấy chứng nhận kết hôn số TT 129/2014, quyển số 01, ngày 08/12/2014 do Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang cấp cho bà Lê Trần Thị Ngọc T và ông Đinh Quốc V không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Bà Lê Trần Thị Ngọc T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đinh Ngọc Uyển N, sinh ngày 06/01/2016. Ông Đinh Quốc V không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Lê Trần Thị Ngọc T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Đinh Quốc V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí sơ thẩm:

Bà Lê Trần Thị Ngọc T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm ba trăm nghìn đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí ba trăm nghìn đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010095 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang cấp ngày 25 tháng 01 năm 2022; bà Lê Trần Thị Ngọc T đã nộp đủ án phí.

Ông Đinh Quốc V không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Lê Trần Thị Ngọc T có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Đinh Quốc V được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự người phải thi hành án dân sự có quy định thoả thuận thi hành án quy quy yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự ; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều Luật thi hành án dân sự

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp nuôi con số 89/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:89/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;