Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con số 53/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 53/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 11/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 93/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị R, sinh năm 1994 (Có mặt) Địa chỉ: ấp TrS, thị trấn OE, huyện TS, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1985 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp TH A, thị trấn OE, huyện TS, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị R trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn H do mai mối và tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn OE, huyện TS, tỉnh An Giang ngày 24/02/2015. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3 năm và có 02 con chung tên Nguyễn Thị QA, sinh ngày 15/7/2009 và Nguyễn Lê TA, sinh ngày 27/12/2014. Nhưng đến năm thứ tư thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn kéo dài đến năm 2020 mâu thuẫn ngày càng nhiều nguyên nhân do anh H ghen tuông, vợ chồng thường xuyên cự cải. Anh H còn hăm dọa giết chị, đi làm thì không phụ giúp chị nuôi con mà gửi tiền về cho cha mẹ. Vợ chồng đã sống ly thân khoảng 06 tháng nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

- Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị QA, sinh ngày 15/7/2009 (hiện đang sống với chị) và Nguyễn Lê TA, sinh ngày 27/12/2014 (hiện đang sống với anh H). Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung QA, chị đồng ý để anh H nuôi dưỡng con chung TA, do mỗi người nuôi một con chung nên không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.

- Về quan hệ tài sản:

+ Về tài sản chung: Không có.

+ Về nợ chung: Không có.

* Về phía bị đơn anh Nguyễn Văn H: Trong quá trình thụ lý vụ án và hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật và triệu tập hợp lệ đương sự đến lần thứ hai nhưng anh H không gửi văn bản ghi ý kiến của bản thân, cũng không đến tham gia phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh H.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết là đúng theo trình tự thủ tục và thẩm quyền, trong quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Về nội dung: Căn cứ theo các quy định của pháp luật, đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị R.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị R được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Thị QA, sinh ngày 15/7/2009 cho chị R tiếp tục nuôi dưỡng, giao con chung tên Nguyễn Lê TA, sinh ngày 27/12/2014 cho anh Nguyễn Văn H tiếp tục nuôi dưỡng, chị R và anh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, bị đơn anh Nguyễn Văn H có địa chỉ tại ấp TH A, thị trấn OE, huyện TS, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TS theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn H.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị R với anh Nguyễn Văn H chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn OE, huyện TS, tỉnh An Giang ngày 24/02/2015. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị R, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị R và anh H sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc và có 02 con chung tên Nguyễn Thị QA, sinh ngày 15/7/2009 và Nguyễn Lê TA, sinh ngày 27/12/2014. Nhưng sau đó thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn kéo dài đến năm 2020 thì mâu thuẫn ngày càng nhiều nguyên nhân do anh H ghen tuông, vợ chồng thường xuyên cự cải, anh H đi làm không phụ giúp chị nuôi con. Vợ chồng đã sống ly thân khoảng 06 tháng nay. Về phía anh H, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh H, tạo điều kiện cho anh H hàn gắn tình cảm với chị R nhưng anh H không đến tham dự các phiên hòa giải, xét xử và cũng không có văn bản nào nêu ý kiến phản đối về yêu cầu khởi kiện của chị R, cho thấy anh H không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị R để xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị R và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị R.

[2.2] Về quan hệ con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị QA, sinh ngày 15/7/2009 và Nguyễn Lê TA, sinh ngày 27/12/2014. Hiện cháu QA đang sống với chị R, cháu TA đang sống với anh H. Sau khi ly hôn chị R yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu QA, không yêu cầu cấp dưỡng. Mặt khác, tại biên bản lấy lời khai ngày 05/3/2021, nguyện vọng của cháu QA cũng muốn được sống với chị R khi cha mẹ ly hôn. Do vậy, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần và ổn định cuộc sống của 02 cháu QA và TA, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu QA cho chị R trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; giao cháu TA cho anh H trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục nhưng các bên phải tạo điều kiện cho nhau đến thăm nom con chung, không ai được ngăn cản.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Lẽ ra, người không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng tại phiên tòa hôm nay, chị R không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con và do anh H vắng mặt nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Tuy nhiên, khi có điều kiện và tình hình thời gian thay đổi thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Do chị Nguyễn Thị R yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị R.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị R được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 18 Quyển số 01/2015 ngày 24 tháng 02 năm 2015 của Ủy ban nhân dân thị trấn OE, huyện TS, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung:

Giao con chung tên Nguyễn Thị QA, sinh ngày 15/7/2009 cho chị Nguyễn Thị R tR tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng.

Giao con chung tên Nguyễn Lê TA, sinh ngày 27/12/2014 cho anh Nguyễn Văn H tR tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng.

Chị Nguyễn Thị R và anh Nguyễn Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được ngăn cản.

Chị Nguyễn Thị R phải tạo điều kiện cho anh Nguyễn Văn H được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung và ngược lại. Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người tR tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Ghi nhận chị Nguyễn Thị R và anh Nguyễn Văn H không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ sống chung thì chị Nguyễn Thị R và anh Nguyễn Văn H vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách là đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị R phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008171 ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TS, tỉnh An Giang.

5. Chị Nguyễn Thị R có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con số 53/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:53/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;