Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 356/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 32/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thái Thị Tố N, sinh năm 1994 (Có mặt) Địa chỉ: ấp TB A, xã VC, huyện TS, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn S, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp VT, xã VTr, huyện TS, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, trong quá trình hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Thái Thị Tố N trình bày:

Chị với anh Phạm Văn S do mai mối và tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2013, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VTr, huyện TS, tỉnh An Giang ngày 05/5/2014. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc và có 01 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014. Sau khi sinh con thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, anh S thường ăn nhậu, không lo làm ăn lo cho gia đình, không quan tâm đến vợ con nên vợ chồng thường xuyên cự cãi. Mặc dù chị đã khuyên ngăn và tha thứ nhiều lần nhưng anh S vẫn không thay đổi. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Nhận thấy, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn anh Phạm Văn S.

- Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014, hiện đang sống với chị. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Tại tờ tự khai, trong quá trình hòa giải bị đơn anh Phạm Văn S trình bày:

Anh thống nhất với trình bày của chị Thái Thị Tố N do mai mối và tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2013, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VTr, huyện TS, tỉnh An Giang ngày 05/5/2014. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc và có 01 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014. Trong thời gian sống chung thì vợ chồng cũng có cự cải do anh ăn nhậu, không quan tâm đến vợ con. Khoảng 30/4/2019 thì chị N bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống nên vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Chị N yêu cầu ly hôn anh thì anh không đồng ý vì anh cũng còn thương vợ, thương con và hiện anh cũng đã sửa đổi nên mong chị N tha thứ cho anh, anh mong muốn được hàn gắn tình cảm vợ chồng.

- Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014, hiện đang sống với chị N. Nếu chị N kiên quyết yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý giao con chung cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Việc Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết là đúng theo trình tự thủ tục và thẩm quyền, trong quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự trong vụ án cũng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Về nội dung: Căn cứ theo các quy định của pháp luật, đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Thái Thị Tố N.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Thái Thị Tố N được ly hôn anh Phạm Văn S.

- Về con chung: Giao con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, anh Sinh không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, bị đơn anh Phạm Văn S có địa chỉ tại ấp VT, xã VTr, huyện TS, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện TS theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Phạm Văn S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Phạm Văn S.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thái Thị Tố N với anh Phạm Văn S chung sống với nhau từ năm 2013, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VTr, huyện TS, tỉnh An Giang ngày 05/5/2014. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị Thái Thị Tố N, Hội đồng xét xử xét thấy: Chị N và anh Sinh sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc và có 01 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014. Tuy Nên sau khi sinh con thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, anh Sinh thường ăn nhậu, không lo làm ăn lo cho gia đình, không quan tâm đến vợ con nên vợ chồng thường xuyên cự cãi. Mặc dù chị N đã khuyên ngăn và tha thứ Nều lần nhưng anh Sinh vẫn không thay đổi nên đến khoảng tháng 5 năm 2019 chị N về nhà cha mẹ ruột sinh sống ly thân anh Sinh cho đến nay. Về phía anh Sinh cũng thừa nhận anh cũng thường hay ăn nhậu không quan tâm đến vợ con chứ vợ chồng cũng không có mâu thuẫn gì lớn, hiện nay anh đã sửa đổi. Nên chị N yêu cầu ly hôn anh thì anh không đồng ý vì anh cũng còn thương vợ, thương con và anh có mong muốn được hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh lại không đưa ra được giải pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải để tạo điều kiện cho chị N và anh Sinh hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng chị N vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Sinh vì tình cảm vợ chồng đã không còn, cuộc sống hôn nhân từ lâu đã không còn hạnh phúc, chị N và anh Sinh đã không còn sống chung với nhau từ tháng 5 năm 2019 đến nay. Tại phiên tòa hôm nay anh Sinh vẫn vắng mặt không có lý do, cho thấy anh không có thiện chí để hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị N.

Từ những nhận định, phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị N với anh Sinh đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có đủ căn cứ để áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Thái Thị Tố N.

[2.2] Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014, hiện đang sống chị N. Sau khi ly hôn chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và anh Sinh cũng đồng ý giao con chung cho chị N nuôi dưỡng. Do vậy, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất, tinh thần và ổn định cuộc sống của cháu Q, Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Q cho chị N trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục nhưng chị N phải tạo điều kiện cho anh Sinh đến thăm nom con chung, không ai được ngăn cản.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Lẽ ra, anh Sinh không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng tại phiên tòa hôm nay, anh Sinh vắng mặt và chị N cũng không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Tuy Nên, khi có điều kiện và tình hình thời gian thay đổi thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Do chị Thái Thị Tố N yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Thái Thị Tố N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Thái Thị Tố N được ly hôn anh Phạm Văn S.

Giấy chứng nhận kết hôn số 66/KH Quyển số 01/2014 ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Ủy ban nhân dân xã VTr, huyện TS, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung:

Giao con chung tên Phạm Thị Như Q, sinh ngày 03/10/2014 cho chị Thái Thị Tố N trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng.

Anh Phạm Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được ngăn cản.

Chị Thái Thị Tố N phải tạo điều kiện cho anh Phạm Văn S được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung. Vì lợi ích của con, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản:

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Ghi nhận chị Thái Thị Tố N và anh Phạm Văn S không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của anh, chị trong thời kỳ sống chung thì chị Thái Thị Tố N và anh Phạm Văn S vẫn phải liên đới chịu trách Nệm với tư cách là đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

4. Về án phí: Chị Thái Thị Tố N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003975 ngày 07 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện TS, tỉnh An Giang.

5. Chị Thái Thị Tố N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Văn S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, tranh chấp nuôi con số 33/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;