Bản án 50/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 50/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON

Trong các ngày 12, 28 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:  519/2023/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị T, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn H, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Chị Đỗ Thị T vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin vắng mặt; anh Phạm Văn H vắng mặt tại phiên tòa, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn chị Đỗ Thị T vắng mặt tại phiên tòa, có văn bản trình bày:

Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị T và anh Phạm Văn H tự nguyện tìm hiểu, sau đó được gia đình hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2002, có đăng ký kết hôn vào ngày 15/6/2006 tại UBND xã P. Sau khi cưới thì chị T và anh H về chung sống với cha mẹ anh H tại ấp A, xã P. Trong quá trình chung sống đến năm 2014, khi chị T có bầu con út Phạm Chí V thì anh H quen biết người khác, không quan tâm đến chị T, thường xuyên chửi và có đánh chị T; chị T có trao đổi với anh H nhưng anh H không thay đổi. Từ năm 2014 đến năm 2016 thì chị T và anh H sống chung nhà nhưng không có quan tâm, trao đổi, nói chuyện với nhau. Đến năm 2016 thì chị T mang con lớn và con út về nhà cha mẹ chị T tại ấp A, xã P sinh sống nên chị T và anh H sống ly thân đến nay mà không hàn gắn tình cảm được, bởi vì chị T không có ý định hàn gắn với anh H, anh H cũng không có tìm chị T để hàn gắn. Nay chị T không còn tình cảm với anh H nên chị T yêu cầu ly hôn với anh H.

Về con chung: Đối với con chung tên Phạm Văn P, sinh ngày 30/4/2005, hiện nay đã trên 18 tuổi, tự lao động và sinh sống được nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị Đỗ Thị T đồng ý giao con chung tên Phạm Chí K, sinh ngày 24/5/2007 cho anh Phạm Văn H được quyền nuôi dưỡng và chị T không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Chị Đỗ Thị T yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung tên Phạm Chí V, sinh ngày 27/12/2014 và không yêu cầu anh Phạm Văn H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Phạm Văn H: Bị đơn anh H vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa hòa giải 02 lần, thông báo về việc yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, nhưng anh H vắng mặt không có lý do, không cung cấp văn bản ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị T, cũng không tham dự phiên họp – hòa giải 02 lần và phiên tòa 02 lần nên Tòa án không thu thập được lời khai, ý kiến của anh H đối với yêu cầu khởi kiện của chị T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Bình tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đỗ Thị T. Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị T được ly hôn với anh Phạm Văn H. Về con chung: Đối với con chung tên Phạm Văn P, sinh ngày 30/4/2005 hiện nay đã thành niên, có khả năng tự lao động nuôi bản thân nên không xem xét, giải quyết. Giao con chung tên Phạm Chí K, sinh ngày 24/5/2007 cho anh H được quyền nuôi dưỡng đến khi cháu K thành niên đủ 18 tuổi. Giao con chung tên Phạm Chí V, sinh ngày 27/12/2014 cho chị T được quyền nuôi dưỡng đến khi cháu Vĩnh thành n đủ 18 tuổi. Anh H, chị T không phải cấp dưỡng cho con do anh H, chị T không có yêu cầu người còn lại cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết do không có yêu cầu.

Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:

- Giấy CCCD của chị Đỗ Thị T (Bản photo, đã đối chiếu bản chính);

- Trích lục kết hôn (Bản sao);

- Giấy khai sinh (Bản sao);

- Bản tự khai ngày 05/12/2023 của chị Đỗ Thị T; Bản tự khai ngày 05/12/2023 của Phạm Chí K và Phạm Chí V (Bản chính);

- Bản tự khai của Phạm Chí K ngày 05/01/2024 (Bản chính).

- Biên bản lấy lời khai Phạm Chí V ngày 05/01/2024 và Biên bản lấy lời khai chị Đỗ Thị T ngày 19/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình;

- Văn bản về việc xác minh nơi cư trú đối với anh Phạm Văn H ngày 22/02/2024 của Công an xã P, huyện T (Bản chính).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Theo yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị T và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Bị đơn anh Phạm Văn H cư trú tại ấp A, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.3] Nguyên đơn chị Đỗ Thị T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Phạm Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng không có cung cấp ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn; đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do; do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T, anh H theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.4] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ, nên thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị T yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn H.

Hôn nhân giữa anh H và chị T được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, không bị cưỡng ép hoặc lừa dối; anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên là hôn nhân hợp pháp. Chị T xác định trong quá trình chung sống đến năm 2014 thì anh chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H quen biết người khác, không chăm lo cho gia đình, không quan tâm đến chị T. Đến năm 2016, do anh H vẫn không thay đổi nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2016 đến nay mà không hàn gắn, đoàn tụ tình cảm với nhau được. Anh H đã được Tòa án thông báo về phiên họp – hòa giải 02 lần để tạo điều kiện cho anh chị hòa giải, nhưng anh H không đến, cho thấy anh H không muốn hàn gắn, đoàn tụ với chị T.

Khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.

Từ trình bày của chị T cho thấy chị T và anh H đã không thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng trong thời gian dài từ năm 2016 đến nay. Như vậy, có cơ sở xác định hôn nhân giữa chị T và anh H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Do đó, chị Đỗ Thị T yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn H là phù hợp theo quy định tại Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên được chấp nhận.

[2.2] Về con chung:

Chị T xác định chị T và anh H có ba con chung tên Phạm Văn P, sinh ngày 30/4/2005, Phạm Chí K, sinh ngày 24/5/2007, Phạm Chí V, sinh ngày 27/12/2014. Đối với con chung tên Phạm Văn P, sinh ngày 30/4/2005 hiện nay đã thành niên, có khả năng tự lao động nuôi bản thân nên chị Đỗ Thị T không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị T đồng ý giao cháu K cho anh H được quyền nuôi dưỡng đến khi cháu K đủ 18 tuổi và chị T không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Chị T yêu cầu được quyền nuôi dưỡng cháu V đến khi cháu V đủ 18 tuổi và chị T không có yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H không cung cấp cho Tòa án ý kiến, yêu cầu đối với con chung.

Hiện nay, cháu Phạm Văn P, sinh ngày 30/4/2005 đã thành niên đủ 18 tuổi, đã lao động tự nuôi sống bản thân, chị T và anh H không có yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết đối với cháu Phạm Văn P.

Đối với cháu Phạm Chí K thì anh H đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu K từ năm 2016 đến nay, anh H đã làm tròn nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và cho cháu K đi học. Mặt khác, cháu K đã trên 07 tuổi, có văn bản ghi nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với anh H. Đối với cháu Phạm Chí V thì chị T đang trực tiếp nuôi dưỡng cháu V từ năm 2016 đến nay, chị T đã làm tròn nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V. Mặt khác, cháu K, cháu V đều đã trên 07 tuổi, cháu K có văn bản ghi nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với anh H, cháu V có ý kiến nêu nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với chị T.

Khoản 1, 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.” Do đó, căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu K, cháu V như đã phân tích, đồng thời xem xét nguyện vọng của cháu K, cháu V, xét thấy không cần thiết làm thay đổi hoàn cảnh sống ổn định của cháu K, cháu V, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T, về việc giao cháu K cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng và giao cháu V cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, là phù hợp theo quy định của pháp luật; anh H, chị T không phải cấp dưỡng cho con do anh H, chị T không có yêu cầu người còn lại cấp dưỡng cho con.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đỗ Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết; anh Phạm Văn H không có ý kiến, yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[3] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử do đó được chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đỗ Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; anh Phạm Văn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị T.

1. Về hôn nhân: Chị Đỗ Thị T được ly hôn với anh Phạm Văn H.

2. Về con chung: Đối với con chung tên Phạm Văn P, sinh ngày 30/4/2005; hiện nay đã thành niên đủ 18 tuổi, đã lao động tự nuôi sống bản thân, không có yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

Giao con chung tên Phạm Chí K, sinh ngày 25/4/2007 cho anh Phạm Văn H được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu Phạm Chí K thành niên đủ 18 tuổi. Chị Đỗ Thị T không phải cấp dưỡng cho cháu Phạm Chí K do anh Phạm Văn H không có yêu cầu chị Đỗ Thị T cấp dưỡng cho con.

Giao con chung tên Phạm Chí V, sinh ngày 27/12/2014 cho chị Đỗ Thị T được quyền tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu Phạm Chí V thành niên đủ 18 tuổi. Anh Phạm Văn H không phải cấp dưỡng cho cháu Phạm Chí V do chị Đỗ Thị T không có yêu cầu anh Phạm Văn H cấp dưỡng cho con.

Sau khi ly hôn, anh Phạm Văn H, chị Đỗ Thị T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Anh Phạm Văn H, chị Đỗ Thị T không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh Phạm Văn H, chị Đỗ Thị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con của anh Phạm Văn H, chị Đỗ Thị T.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đỗ Thị T và anh Phạm Văn H không có yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Chị Đỗ Thị T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí Tòa án số 0004433 ngày 07/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Bình. Như vậy, chị T đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Phạm Văn H không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 50/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con

Số hiệu:50/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;