Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 76/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 76/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 02 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 188/2020/TLST - HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Cao Thị Ngọc D, sinh năm: 1988 (có mặt). Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn K, sinh năm: 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, chị Cao Thị Ngọc D là nguyên đơn trình bày:

Năm 2008, chị và anh K chung sống với nhau, năm 2013 hai bên tự nguyện đến Ủy ban nhân dân xã T, huyện Giồng Riềng đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, cuộc sống hàng ngày thường cự cãi nhau và anh K đánh chị, chị và anh K tự hàn gắn tình cảm nhiều lần để tiếp tục chung sống nhưng không đạt kết quả. Đầu năm 2019, chị và anh K tự chấm dứt quan hệ vợ chồng cho đến nay, trong thời gian này mạnh ai người đó lo.

Quá trình chung sống chị và anh K có hai người con chung là cháu Nguyễn Cao Phúc Y, sinh ngày 03/9/2010 và cháu Nguyễn Cao Phúc Z, sinh ngày 05/12/2011 do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Chị D xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh K nên cương quyết yêu cầu được ly hôn. Về con chung: Theo đơn khởi kiện chị yêu cầu được nuôi cháu Z, giao cháu Y cho anh K nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, tại phiên tòa chị xác định giữa chị và anh K không có tranh chấp về việc nuôi con nên rút yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn, đề nghị Tòa án ghi nhận việc chị nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Y và cháu Z; về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Văn K là bị đơn: Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị D, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để Tòa án xem xét.

Phát biểu quan điểm của của đại diện Viện kiểm sát:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, vẫn còn vi phạm về thời hạn xét xử theo Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị khắc phục.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh K chưa thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị D và anh K tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Chị D xác định thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó xảy ra mâu thuẫn và vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ đầu năm 2019 cho đến nay, không còn quý trọng, quan tâm nhau, tại phiên tòa chị D xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh K; anh K không có ý kiến phản đối. Xét thấy, hôn nhân của chị D và anh K đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị D đối với anh K.

Về con chung: Chị D tự nguyện rút yêu cầu về việc tranh chấp nuôi con khi ly hôn với anh K, căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị chấp nhận và đình chỉ xét xử, nếu sau này có tranh chấp anh, chị có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

Về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu giải quyết, đề nghị không xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Cao Thị Ngọc D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Nguyễn Văn K, đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh K là bị đơn cư trú tại huyện G, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh K. Tuy nhiên, anh K không đến Tòa án để tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị D giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác, anh K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh K.

[2]. Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh K chung sống với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn ngày 18/10/2011 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện G nên quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp.

Chị D xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, cuộc sống hàng ngày thường cự cãi nhau và anh K đánh chị. Đầu năm 2019, chị và anh K đã chấm dứt quan hệ vợ chồng và sống ly thân với nhau cho đến nay, trong thời gian sống ly thân không có liên hệ với nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng, không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Do đó, chị D và anh K đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Tòa án xác minh về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị D và anh K tại nơi cư trú, Trưởng ấp X, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang cho biết: Ban lãnh đạo ấp không biết được nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị D và anh K.

Vì vậy, Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị D và anh K nhưng không đạt kết quả do anh K vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu của chị D, chị D xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh K nên cương quyết yêu cầu ly hôn, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị D và anh K đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị D yêu cầu ly hôn với anh K là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con: Quá trình chung sống chị D và anh K có hai người con chung là cháu Nguyễn Cao Phúc Y, sinh ngày 03/9/2010 và cháu Nguyễn Cao Phúc Z, sinh ngày 05/12/2011. Theo đơn khởi kiện chị D yêu cầu được quyền nuôi cháu Z, chị đồng ý để anh K nuôi cháu Y, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, chị D xác định chị có đủ điều kiện nuôi con, các con chung do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, đảm bảo sự phát triển về mọi mặt, chị và anh K không có tranh chấp về việc nuôi con chung nên chị rút lại yêu cầu giải quyết về con. Xét thấy, việc rút yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn của chị D là tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử yêu cầu nuôi con khi ly hôn giữa chị D và anh K. Đồng thời, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu Y và cháu Z, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của chị D nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Y và cháu Z. Trường hợp, chị D và anh K có tranh chấp về việc nuôi con chung thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

Về tài sản và nợ chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Cao Thị Ngọc D đối với anh Nguyễn Văn K.

2. Về con chung: Đình chỉ xét xử yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn của chị Cao Thị Ngọc D đối với anh Nguyễn Văn K. Ghi nhận ý kiến của chị D nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Cao Phúc Y, sinh ngày 03/9/2010 và cháu Nguyễn Cao Phúc Z, sinh ngày 05/12/2011. Trường hợp, anh K và chị D có tranh chấp về việc nuôi con thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

3. Về án phí: Chị Cao Thị Ngọc D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003289 ngày 05/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang; chị D đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Cao Thị Ngọc D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án là ngày 02/6/2021; anh Nguyễn Văn K có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 76/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:76/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;