TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 65/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 21 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 417/2023/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2024/QĐXXST- HN ngày 02 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 58/2024/QĐST- HNGĐ ngày 23 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phan Thị N, sinh năm 1994; cư trú: Ấp M, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Bị đơn: Ông Lưu Văn B, sinh năm 2001; cư trú: Ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà N có đơn xin xét xử vắng mặt, ông B vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Phan Thị N trình bày: Hôn nhân giữa bà N và ông B do tự tìm hiểu yêu thương tiến tới hôn nhân và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 24/01/2022. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cuộc sống vợ chồng có nhiều xung đột, thường xuyên cự cãi, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống gia đình. Ông B chỉ lo ăn chơi, không quan tâm vợ con, sau khi cãi nhau thì tự ý bỏ đi và ly thân với bà từ khoảng giữa năm 2022 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, ông B cũng không tới lui hàn gắn hay cấp dưỡng gì cho con, gia đình hai bên biết nhưng không đứng ra hàn gắn. Tình cảm không còn nên bà Phan Thị N xin lý hôn với ông Lưu Văn B.
Về con chung: Có 01 con chung: Cháu Lưu Hoàng Gia B1, sinh ngày 14/01/2022. Sau khi ly hôn, bà N yêu cầu được nuôi dưỡng cháu B1, không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong vụ án này kể từ khi thụ lý cho đến khi Tòa án ra thông báo phiên hòa giải, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ thì ông B vẫn vắng mặt, Hội đồng xét xử nghĩ nên cần tiến hành việc xét xử mà không qua thủ tục hòa giải.
Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để các bên tiếp cận, đương sự thống nhất với những tài liệu, chứng cứ mà mình cung cấp, không bổ sung thêm.
Biên bản lấy lời khai ngày 19/12/2023, người thân bà N cung cấp: Hôn nhân giữa bà N và ông B do tự tìm hiểu tiến tới hôn nhân, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên cãi nhau, hai bên bất đồng quan điểm mà nguyên nhân là do bản thân ông B chỉ lo ăn chơi, không chăm lo cuộc sống gia đình. Khi bà N sinh con được 6 tháng thì cả hai cự cãi, ông B bỏ đi và ly thân với bà N từ khoảng giữa năm 2022 cho đến nay. Từ khi ly thân, ông B không hề tới lui hàn gắn hay năn nỉ gì bà N cũng không thăm nom hay chăm sóc con nên bà nghĩ khả năng hàn gắn là không thể; về con chung thì có 01 con chung, hiện do bà N nuôi dạy; tài sản chung, nợ chung thì bà không biết.
Thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư do Công an xã P cung cấp ngày 20/12/2023, ông Lưu Văn B, sinh năm 2001, hiện đăng ký thường trú tại ấp P, xã P, huyện A, tỉnh An Giang.
Tại phiên toà: Bà N vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông B vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt các đương sự theo thủ tục chung.
Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi; thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.
Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sợ vụ án cho thấy hôn nhân của bà N, ông B có mâu thuẫn trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Con chung đang sinh sống cùng bà N và được bà N nuôi dạy, để đảm bảo điều kiện cho các con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý của cháu sau này được tốt đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, giao con chung cho bà N được tiếp tục nuôi dạy. Công nhận sự tự nguyện của bà N về việc không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung.
Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Do đương sự không yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Phan Thị N yêu cầu được ly hôn với ông Lưu Văn B. Ông B cư trú tại huyện A, tỉnh An Giang nên được Tòa án thụ lý giải quyết theo Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về sự vắng mặt của đương sự: Bà N vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông B được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà N, ông B theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Quan hệ hôn nhân giữa bà N, ông B do tự tìm hiểu yêu thương tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 24/01/2022 nên làm phát sinh giá trị pháp lý theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét yêu cầu của bà N xin ly hôn với ông B Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa bà N, ông B phát sinh từ lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn nên đã sống ly thân từ giữa năm 2022. Trong quá trình giải quyết, Tòa án đã hòa giải đoàn tụ cho cả hai nhưng ông B không có mặt để hàn gắn tình cảm, bà N cương quyết ly hôn. Cho thấy, mâu thuẫn tình cảm giữa hai bên đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, điều này là phù hợp với lời trình bày của người thân trong gia đình bà N, ông B nên yêu cầu ly hôn của bà N là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Có 01 con chung: Cháu Lưu Hoàng Gia B1, sinh ngày 14/01/2022, bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu B1. Xét thấy, cháu B1 đang được bà N nuôi dạy và hiện tại cháu B1 dưới 36 tháng tuổi. Do đó, để tránh xáo trộn về mặt tâm sinh lý đối với cháu B1 và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên nên Hội đồng xét xử tiếp tục để bà N nuôi dạy con chung.
Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn cha hoặc mẹ là người không trực tiếp nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà N không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của đương sự.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà N xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Tuy nhiên, nếu có căn cứ xác định có tài sản chung, nợ chung thì các đương sự có thể khởi kiện và sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[5] Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Các Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị N.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị N được ly hôn với ông Lưu Văn B.
Về con chung: Bà Phan Thị N được tiếp tục nuôi dạy 01 (một) con chung tên Lưu Hoàng Gia B1, sinh ngày 14/01/2022.
Công nhận sự tự nguyện của bà N về việc không yêu cầu ông B cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông B cùng các thành viên gia đình phải tôn trọng quyền trực tiếp nuôi con của bà N. Ngược lại bà N và các thành viên trong gia đình không được cản trở ông B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ theo quy định của pháp luật hoặc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
Về án phí: Bà Phan Thị N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Số tiền này được chuyển từ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng mà bà N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú theo biên lai thu số: 0009124 ngày 24/11/2023.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).
Bản án 65/2024/HNGĐ-ST về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung
Số hiệu: | 65/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về