Bản án về tranh chấp hôn nhân, nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 02 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 102/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Cao Sơn Đ, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Tòng Thị P, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 28/9/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Cao Sơn Đ trình bày: Anh và chị Tòng Thị P tự nguyện kết hôn,đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 10/01/2014. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị P có quan hệ ngoại tình dẫn đến vợ chồng cãi chửi nhau Do không thể chung sống được nên anh Đ và chị P đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh Đ đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn chị Tòng Thị P.

Về con chung:Anh Đ khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Cao Thế L, sinh ngày 27/4/2014 và cháu Cao Phú Tr, sinh ngày 28/12/2017, từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay các cháu L và Tr ở với anh Đ. Anh Đ đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu L và cháu Tr, không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, hiện tại làm nghề cơ khí thu nhập hàng tháng khoảng 7 triệu đồng.

Về tài sản: Anh Cao Sơn Đ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập chị Tòng Thị P đến Toà án để viết bản khai nhưng chị P không có mặt tại Tòa án theo giấy triệu tập mà không có lý do nên không có bản khai của chị P.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Đ đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với chị P và được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu L và cháu Tr là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, 82, 83, khoản 1, Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Đ. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Đ về việc không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Tòng Thị P đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng chị P không có mặt tại Tòa án mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án. Chị P cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, anh Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Đ và chị P là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân:Anh Cao Sơn Đ và chị Tòng Thị P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo anh Đ, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và chị P có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng xảy ra cãi chửi nhau. Kết quả xác minh ngày 08/11/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H cũng cho thấy, quá trình chung sống giữa chị P và anh Đ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn xung đột, nguyên nhân là do vợ chồng nghi kỵ lẫn nhau. Như vậy trong cuộc sống vợ chồng giữa anh Đ và chị P luôn xảy ra mâu thuẫn, xung đột dẫn đếnvợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho anh Đ được ly hôn chị P là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh Đ khai,vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Cao Thế L, sinh ngày 27/4/2014 và cháu Cao Phú Tr, sinh ngày 28/12/2017. Anh Đ cũng xuất trình cho Tòa án bản sao chứng thực giấy khai sinh của các cháu L và cháu Tr, trong đó xác định cháu L và cháu Tr là con chung của chị P và anh Đ. Mặt khác, các cháu L và Tr được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định các cháu L và Tr là con chung của anh Đ và chị P. Anh Đ có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai cháu L và Tr, từ khi ly thân các cháu L và Tr ở với anh Đ, cháu L cũng có nguyện vọng được ở với bố. Để tránh xáo trộn về tâm lý cũng như việc học tập của các cháu, do đó giao các cháu L và Tr cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của anh Đ về việc không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh là phù hợp với quy định tại Điều 81; 82; 83, khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về tài sản: Anh Đ không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Anh Cao Sơn Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83, khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Cao Sơn Đ và chị Tòng Thị P.

2. Về con chung: Công nhận các cháu Cao Thế L, sinh ngày 27/4/2014 và cháu Cao Phú Tr, sinh ngày 28/12/2017 là con chung của anh Đ và chị P. Giao các cháu L và Tr cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chị P không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh Đ.

Chị Pâng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị P không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh Đ.

3. Về án phí: Anh Cao Sơn Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh Đ đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0004201 ngày 01/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh Đ đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Đ, chị P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân, nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;