Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 50/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 94/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 72/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lâm Thị Q, sinh năm: 1982 (có đơn đề nghị vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp R, xã H, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1975 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố 8, thị trấn G, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 01 tháng 3 năm 2022 và quá trình giải quyết vụ án, chị Lâm Thị Q là nguyên đơn trình bày:

Chị Q và anh T kết hôn năm 2000, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 29/10/2002 tại Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, cuộc sống hằng ngày thường cự cãi nhau. Cuối năm 2010, chị Q và anh T tự chấm dứt quan hệ vợ chồng với nhau cho đến nay, cuộc sống mạnh ai người đó lo.

Quá trình chung sống chị Q và anh T có hai người con chung là cháu Nguyễn Thị Bé V1, sinh ngày 08/4/2003 và cháu Nguyễn Vũ V2, sinh ngày 06/11/2007.

Chị Q xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh T nên cương quyết yêu cầu ly hôn; về con: Theo đơn khởi kiện chị Q yêu cầu được quyền nuôi cháu V2, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, đối với cháu V1 (trên 18 tuổi) chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, chị Q rút yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn, đề nghị Tòa án ghi nhận việc chị nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V2; về tài sản và nợ: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Văn T là bị đơn:

Không nộp văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị Q, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để Tòa án xem xét.

Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ:

Trưởng khu phố 8, thị trấn G, huyện G, cung cấp thông tin như sau: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1975 là bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú tại khu phố 8, thị trấn G, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn tình cảm vợ chồng chị Q và anh T thì Ban lãnh đạo khu phố không biết được.

Phát biểu quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp, tư cách đương sự, thẩm quyền giải quyết vụ án, xem xét việc thụ lý vụ án, cấp tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tiến hành thu thập chứng cứ và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn đã thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với anh T chưa thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Năm 2000, chị Q và anh T chung sống với nhau như vợ chồng. Năm 2002, hai bên tự nguyện đến Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G đăng ký kết hôn. Do đó, quan hệ hôn nhân của chị Q và anh T là hợp pháp, kể từ thời điểm đăng ký kết hôn. Chị Q trình bày thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó xảy ra mâu thuẫn và vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ cuối năm 2010 cho đến nay, không còn quý trọng, quan tâm nhau, chị Q xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh T nên cương quyết yêu cầu được ly hôn, anh T không có ý kiến phản đối. Xét thấy, hôn nhân của chị Q và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Q đối với anh T.

Về con: Chị Q tự nguyện rút yêu cầu tranh chấp nuôi con khi ly hôn với anh T, căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị chấp nhận và đình chỉ xét xử.

Về tài sản và nợ: Chị Q không yêu cầu giải quyết, đề nghị không xét.

Về án phí: Đề nghị buộc chị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Lâm Thị Q yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, nuôi con với anh Nguyễn Văn T, đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Anh T là bị đơn cư trú tại huyện G, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T. Tuy nhiên, anh T không đến Tòa án tham gia phiên họp, hòa giải, phiên tòa là không thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do chị Q giao nộp và do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án, theo quy định tại khoản 1 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chị Q có đơn đề nghị vắng mặt hợp lệ, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị Q và anh T.

[2]. Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2000, chị Q và anh T chung sống với nhau như vợ, chồng đến năm 2002, hai bên tự nguyện đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn G, huyện G, cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 121 ngày 29 tháng 10 năm 2002 nên quan hệ hôn nhân của chị Q và anh T là hợp pháp, kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Quá trình giải quyết vụ án, chị Q trình bày vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, do bất đồng quan điểm sống, không hợp tính tình, cuộc sống hằng ngày thường cự cãi nhau. Cuối năm 2010, chị Q và anh T đã chấm dứt quan hệ vợ chồng và sống ly thân với nhau cho đến nay, người nào chỉ biết bổn phận người đó, không còn quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Do đó, chị Q và anh T đều vi phạm nghiêm trọng về quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Tòa án tiến hành thủ tục hòa giải để giải quyết mâu thuẫn, tạo điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng cho chị Q và anh T nhưng không đạt kết quả do anh T vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu của chị Q. Mặt khác, chị Q xác định không còn tình cảm và không thể tiếp tục chung sống với anh T, cương quyết yêu cầu được ly hôn, điều này cho thấy tình cảm vợ chồng của chị Q và anh T đã phai nhạt, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị Q yêu cầu ly hôn với anh T là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con: Chị Q và anh T có hai người con chung là cháu Nguyễn Thị Bé V1, sinh ngày 08/4/2003 và cháu Nguyễn Vũ V2, sinh ngày 06/11/2007. Theo đơn khởi kiện, chị Q yêu cầu được quyền nuôi cháu V2, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con; đối với cháu V1 (trên 18 tuổi), chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, chị Q xác định chị có đủ điều kiện nuôi con, cháu V2 do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định, đảm bảo sự phát triển về mọi mặt, chị và anh T không có tranh chấp về việc nuôi con chung nên rút yêu cầu giải quyết về con. Xét thấy, việc rút yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn của chị Q là tự nguyện, không trái với quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử yêu cầu nuôi con khi ly hôn giữa chị Q và anh T. Đồng thời, nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu V2, Hội đồng xét xử ghi nhận ý kiến của chị Q nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V2. Trường hợp, chị Q và anh T có tranh chấp về việc nuôi con sau khi ly hôn thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

Về tài sản và nợ: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.

[3]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, điểm a-b khoản 1 Điều 238, khoản 2 Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lâm Thị Q đối với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Đình chỉ xét xử yêu cầu tranh chấp về con khi ly hôn giữa chị Lâm Thị Q và anh Nguyễn Văn T, ghi nhận ý kiến của chị Q nhận trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Vũ V2, sinh ngày 06/11/2007. Trường hợp, chị Q và anh T có tranh chấp về việc nuôi con sau khi ly hôn thì có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết trong một vụ việc khác.

3. Về án phí: Chị Lâm Thị Q phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005836 ngày 01 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang, chị Q đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lâm Thị Q và anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;