Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 48/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 48/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 16/7/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 279/2021/TLST-HNGĐ, ngày 20 tháng 4 năm 2021 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15/6/2021; quyết định hoãn phiên tòa số 31/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 30/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Phạm Tiến H1, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt, không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/4/2021, biên bản lấy lời khai ngày 27/4/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị (Hoàng Thị H) với anh Phạm Tiến H1 kết hôn với nhau vào ngày 30/10/2006, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, trên cơ sở hai bên đều tự nguyện, tự do tìm hiểu và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sinh sống cùng nhau tại thôn N, xã T. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống và kinh tế trong gia đình, thường xuyên cãi chửi nhau. Chị và anh H1 đã được hai bên gia đình hoà giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn không giảm đi mà ngày càng trầm trọng. Từ năm 2018, anh H1 đi làm ăn xa và không còn quan tâm đến vợ con. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Tiến H1.

Về con chung: Chị và anh Phạm Tiến H1 có hai con chung là cháu Phạm Thu T, sinh ngày 05/7/2006 và cháu Phạm Thị A, sinh ngày 13/4 2008. Sau khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, vay nợ chung: Chị xác định chị và anh H1 không có tài sản và vay nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Phạm Tiến H1 đến Tòa án để giải quyết việc chị H yêu cầu ly hôn, nhưng anh H1 đều không có mặt. Qua xác minh tại địa phương thể hiện: Anh Phạm Tiến H1 có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thôn N, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, hiện nay anh H1 đi làm ăn xa, không thông báo địa chỉ mới cho gia đình và địa phương; chị H và anh H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị H và anh H1 sinh sống tại thôn N, xã T. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn; vợ chồng chị H và anh H1 có 02 con chung là cháu Phạm Thu T, sinh ngày 05/7/2006 và cháu Phạm Thị A, sinh ngày 13/4 2008, hiện nay cháu T và cháu A đang ở cùng chị H tại thôn N, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều đảm bảo đúng quy định.

Về việc giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Xử cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Phạm Tiến H1; giao cháu Phạm Thu T, sinh ngày 05/7/2006 và cháu Phạm Thị A, sinh ngày 13/4 2008 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; anh H1 không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm con chung. Chị Hoàng Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Qua xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện: Anh Phạm Tiến H1 có hộ khẩu thường trú tại thôn N, xã T huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay anh H1 đi làm ăn xa, không thông báo địa chỉ mới cho gia đình và địa phương nên hiện tại không rõ anh H1 đang ở đâu. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã triệu tập, gia đình đã thông báo cho anh H1 nhưng anh H1 không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng anh H1 không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện. Đây được xem là trường hợp người bị kiện cố tình che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ nên Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Phạm Tiến H1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, hai vợ chồng chung sống không hòa thuận, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và kinh tế trong gia đình, cuộc sống hôn nhân của chị H và anh H1 không hạnh phúc, ly thân đã lâu và cả hai bên đều không có biện pháp để hàn gắn quan hệ vợ chồng, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nên không thể tồn tại một gia đình hạnh phúc, tiến bộ. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị H là xử cho chị H được ly hôn với anh Phạm Tiến H1.

[3] Về con chung: Chị Hoàng Thị H và anh Phạm Tiến H1 có hai con chung là cháu Phạm Thu T, sinh ngày 05/7/2006 và cháu Phạm Thị A, sinh ngày 13/4 2008, hiện nay cả hai cháu đang ở cùng chị H tại thôn N, xã T, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Xét thấy cháu T và cháu A đều có nguyện vọng ở với mẹ, còn anh H1 hiện nay không có nơi cư trú ổn định nên cần giao cháu T và cháu A cho chị Hoàng Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phạm Tiến H1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm con chung.

[4] Về tài sản, vay nợ chung: Chị Hoàng Thị H xác định vợ chồng không có tài sản, vay nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị H phải nộp án phí sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị H được ly hôn với anh Phạm Tiến H1.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Thu T, sinh ngày 05/7/2006 và cháu Phạm Thị A, sinh ngày 13/4 2008 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Phạm Tiến H1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền đi lại thăm con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0001688 ngày 20/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S. Anh Phạm Tiến H1 không phải nộp án phí.

Chị Hoàng Thị H và anh Phạm Tiến H1 được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 48/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Sơn - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;