Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 35/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 35/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 53/2021/TLST-HNGĐ, ngày 31 tháng 3 năm 2021, về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXX-ST ngày 16 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Đào Thị H, sinh năm 1982 * Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1983 Đều trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đông Hưng, Thái Bình.

* Người đại diện hợp pháp cho anh Nguyễn Văn P:

Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1954 và bà Vũ Thị Đ, sinh năm 1962 Đều trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đông Hưng, Thái Bình.

* Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Nguyễn Văn Phóng:

Ông Vũ Ngọc T, sinh ngày 10/9/1985 – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thái Bình.

(Chị H, ông T có mặt; anh P, ông L, bà Đ vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn xin ly hôn ngày 30/3/2021; Bản tự khai ngày 31/3/2021 và tại phiên tòa chị Đào Thị H nguyên đơn trình bày:

* Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn P tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 04/01/2006 tại UBND xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, đặc biệt kể từ ngày sinh con mâu thuẫn càng căng thẳng, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, luôn xảy ra cãi vã, gia đình hai bên đều khuyên bảo và níu kéo nhưng không thành. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

* Về con chung: Chị và anh P có 01 con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. Ly hôn chị đồng ý nhường quyền trực tiếp nuôi con cho anh P và tự nguyện đóng góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng kể từ tháng 8/2021 đến khi con đủ 18 tuổi.

* Về tài sản và nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại biên bản ghi lời khai ngày 20/4/2021 anh Nguyễn Văn P bị đơn trình bày:

* Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị H tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 04/01/2006 tại UBND xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng gia đình anh ở thôn Đ, xã Đ. Quá trình chung sống vợ chồng không phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng sống ly thân từ tháng 10/2006. Nay chị H xin ly hôn anh đồng ý.

* Về con chung: Anh và chị H có 01 con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. Ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Về tài sản và nợ: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Ông Nguyễn Văn L, bà Vũ Thị Đ là đại người đại diện hợp pháp cho anh Nguyễn Văn P trình bày:

* Về quan hệ hôn nhân: Anh P, chị H tự nguyện tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng gia đình ông bà ở thôn Đ, xã Đ. Quá trình chung sống vợ chồng không tìm được tiếng nói chung và đã sống ly thân từ tháng 10/2006. Nay chị H xin ly hôn anh P, quan điểm của ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Về con chung: Anh P, chị H có 01 con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. Ly hôn ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Nguyễn Văn P trình bày:

- Về quan hệ hôn nhận: Anh P kết hôn với chị H do tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Nay chị H xin ly hôn anh P đồng ý, người đại diện hợp pháp của anh P đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật nên xác định tình cảm giữa chị H và anh P không còn nên đề nghị HĐXX xử cho chị H được ly hôn anh P.

- Về con chung: Anh P, chị H có 01 con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. Ly hôn chị H nhường quyền nuôi con cho anh P và tự nguyện đóng góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng kể từ tháng 8/2021 đến khi con đủ 18 tuổi. Xét thấy việc anh P được hưởng trợ cấp xã hội tuy nhiên anh P vẫn có đủ sức khỏe khả năng, trí tuệ để trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên đề nghị HĐXX giao con Nguyễn Tuấn A cho anh P trực tiếp nuôi cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu A.

Về tài sản: Anh P, chị H không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử, của thư ký và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ vào quy định của pháp luật xử cho chị Đào Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn P.

Về con chung: Anh P, chị H có 01 con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. Ly hôn đề nghị HĐXX giao con chung Nguyễn Tuấn A cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng cùng là phù hợp với nguyện vọng của chị H và của cháu Tuấn A và chấp nhận sự tự nguyện của chị H đóng góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng kể từ tháng 8/2021 đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản và nợ: Chị H ,anh P không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Đào Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí của người có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét toàn bộ các tài liệu chứng cứ và ý kiến của các đương sự tại lời khai và các biên bản hòa giải và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Nguyên đơn, bị đơn đang cư trú tại huyện Đông Hưng, quá trình giải quyết vụ án bị đơn không thay đổi nơi cư trú, vì vậy căn cứ vào các Điều 28; 35; 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân huyện Đông Hưng giải quyết là đúng pháp luật. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn P được hưởng trợ cấp xã hội nên Tòa án đã cử ông Vũ Ngọc Trịnh là trợ giúp viên pháp lý là người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho anh Nguyễn Văn P.

- Tại phiên tòa ngày 07/7/2021 anh P, ông L, bà Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX đã căn cứ vào khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự để hoãn phiên tòa.

- Tại phiên tòa ngày 20/7/2021 anh P, ông L, bà Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX đã căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiếp tục xét xử.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Chị H và anh P tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 04/01/2006 tại UBND xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, đặc biệt kể từ ngày sinh con mâu thuẫn càng căng thẳng vợ chồng bất đồng quan điểm sống, luôn xảy ra cãi vã, gia đình hai bên đều khuyên bảo và níu kéo nhưng không thành. Nay chị H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị H xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn P.

[2.2] Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 20/4/2021, UBND xã Đ cung cấp như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh P, chị H tự nguyện tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng gia đình anh P ở thôn Đ, xã Đ. Chị H, anh P đã sống ly thân từ tháng 10/2006. Nay chị H xin ly hôn quan điểm của địa phương đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ, trường hợp chị H cương quyết xin ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Anh P, chị H có 01 con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. Ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho con chung.

[2.3] Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã triệu tập anh P, chị H nhiều lần mục đích để hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ nhưng anh P không có mặt nên Tòa án không thể hòa giải được. Vì vậy, HĐXX xác định quan hệ hôn nhân giữa chị H, anh P không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị H xin được ly hôn, anh P đồng ý nên cần được chấp nhận là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng tại phiên tòa.

[3] Về con chung: Anh P, chị H có 01 con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. Ly hôn chị H đồng ý nhường quyền nuôi con cho anh P và tự nguyện đóng góp cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng kể từ tháng 8/2021 đến khi con đủ 18 tuổi.

HĐXX thấy rằng: Trách nhiệm chăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là nghĩa vụ và trách nhiệm của bố mẹ nên việc giao con chung cho bố hoặc mẹ là người trực tiếp rất quan trọng. Anh P được hưởng trợ cấp xã hội nhưng anh P vẫn có sức khỏe bình thường, đủ năng lực để trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên xét thấy việc giao con chung Nguyễn Tuấn A cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc không ảnh hưởng đến phát triển bình thường của cháu Nguyễn Tuấn A, ngoài ra cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu TA. Vì vậy cần giao cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Tuấn A và chấp nhận việc chị H tự nguyện đóng góp cấp dượng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng kể từ tháng 8/2021 đến khi con đủ 18 tuổi.

[4] Về tài sản: Chị H, anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí của người có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28; Điều 35; Điều 39; Điều 147 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83; 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đào Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn P.

2. Về con chung: Xử giao cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 07/10/2006. chấp nhận việc chị H tự nguyện đóng góp cấp dượng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng kể từ tháng 8/2021 đến khi con đủ 18 tuổi.

Việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng được đặt ra khi một trong các bên có đơn yêu cầu. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản và nợ: Chị H, anh P không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đào Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng, chị H đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002712 ngày 31/3/2021 thành tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Chị Đào Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí của người có nghĩa vụ đóng góp cấp dưỡng nuôi con.

Quyền kháng cáo: Chị Đào Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn P, ông Nguyễn Văn L và bà Vũ Thị Đ có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bán án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 35/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;