TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 22/2024/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
Ngày 02/02/2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên , tỉnh Tuyên Quang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức số hóa vụ án dân sự thụ lý số 254/2023/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/01/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2024/QĐST-HNGĐ ngày 18/01/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị K, sinh năm 1986.
- Bị đơn: Anh Đặng Văn T, sinh năm 1986.
Cùng nơi cư trú: Thôn H, xã B, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.
(Chị K vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Anh T đã được Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần nhưng tại phiên tòa vắng mặt không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo nội dung đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn chị Hoàng Thị K trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đặng Văn T được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 13/5/2009 tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Tình cảm vợ chồng trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc bình thường, đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn phát triển kinh tế gia đình dẫn đến thường xuyên cãi chửi nhau, không tin tưởng nhau. Chị xác định không còn tình cảm với anh T, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị với anh T đã quá căng thẳng, trầm trọng, không thể đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái. Thực tế hiện nay chị và anh T đã sống ly thân nhau từ năm 2020 mỗi người một nơi, không ai quan tâm gì đến nhau. Chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đặng Văn T theo quy định pháp luật.
- Về con chung: Chị và anh Đặng Văn T có 03 người con chung là cháu Đặng Ngọc L, sinh ngày 14/02/2010, cháu Đặng Thu H, sinh ngày 22/8/2011 và cháu Đặng Thu H, sinh ngày 02/9/2013. Ly hôn chị đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cả ba con chung đến khi trưởng thành và chị không yêu cầu anh Đặng Văn T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị vì từ khi vợ chồng ly thân cả ba con chung vẫn ở cùng chị.
- Về tài sản chung, đất đai chung: Chị và anh Đặng Văn T không có tài sản chung, đất đai chung không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.
- Về công nợ chung: Chị và anh Đặng Văn T không vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không đề nghị Tòa án giải quyết khi ly hôn.
Chị Hoàng Thị K xác định anh Đặng Văn T đã biết và được chị trực tiếp thông báo về việc chị gửi đơn đến Toà án nhân dân huyện Hàm Yên để giải quyết việc ly hôn giữa chị với anh T, nhưng anh T cố tình trốn tránh nghĩa vụ không đến Toà án làm việc.
Tại phiên tòa, chị Hoàng Thị K vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị K giữ nguyên ý kiến đã trình bày nêu trên, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì khác.
* Đối với bị đơn anh Đặng Văn T:
Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên đã gửi Thông báo thụ lý vụ án số 254/2023/TLST-HNGĐ ngày 09/10/2023; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02/01/2024 và các văn bản tố tụng khác cho anh Đặng Văn T biết, báo gọi anh T nhiều lần đến Tòa án giải quyết vụ án nhưng anh T không trực tiếp đến Tòa án làm việc. Toà án đã phối hợp với đại diện thôn H, xã B trực tiếp đến nơi cư trú, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của anh T để lấy lời khai và làm việc nhưng anh T không có mặt tại gia đình và địa phương. Tòa án đã tiến hành làm việc với đại diện chính quyền địa phương (thôn H, xã B) và gia đình của anh Đặng Văn T để trực tiếp thông báo về việc chị Hoàng Thị K gửi đơn đến Toà án nhân dân huyện Hàm Yên để giải quyết việc ly hôn giữa chị K với anh T, nhưng anh T cố tình trốn tránh nghĩa vụ không đến Toà án làm việc. Như vậy người bị khởi kiện là anh Đặng Văn T đã cố tình trốn tránh nghĩa vụ nên Tòa án tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án theo thủ tục chung theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Toà án tiến hành lấy lời khai của các cháu: Đặng Ngọc L, sinh ngày 14/02/2010, cháu Đặng Thu H, sinh ngày 22/8/2011 và cháu Đặng Thu H, sinh ngày 02/9/2013 (là con chung của chị Hoàng Thị K và anh Đặng Văn T). Cháu L, cháu H và cháu H trình bày khi bố mẹ cháu giải quyết ly hôn, cháu có nguyện vọng được trực tiếp ở cùng với mẹ cháu là Hoàng Thị K. Các cháu tự nguyện ở với mẹ đẻ của cháu và không bị ai ép buộc gì.
Tòa án xác minh tại địa phương thôn H, xã B, huyện H được cung cấp: Hiện nay chị Hoàng Thị K và anh Đặng Văn T là công dân đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn H, xã B, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. Chị K và anh T có được tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 13/5/2009 tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Tình cảm vợ chồng trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc bình thường, sau đó vợ chồng chị K và anh T thường xuyên đi làm ăn xa rồi mâu thuẫn căng thẳng không chung sống cùng nhau nữa. Theo chính quyền được biết thì chị K và anh T xảy ra mâu thuẫn với nhau nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn phát triển kinh tế gia đình. Anh T thường xuyên đi làm ăn xa nhà, thi thoảng mới về địa phương thăm gia đình, anh T làm công việc gì, ở đâu thì địa phương không biết. Đồng thời đại diện thôn H, xã B cũng xác định: Địa phương đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án số 254/2023/TLST-HNGĐ ngày 09/10/2023 của Tòa án về việc giải quyết ly hôn giữa chị K và anh T, do Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên gửi nhờ địa phương giao, tống đạt trực tiếp cho anh T biết nội dung. Tuy nhiên do anh T thường xuyên đi làm ăn xa vắng nhà, không có mặt tại địa phương nên gia đình anh T và đại diện thôn H đã trực tiếp gọi điện thoại thông báo cho anh T biết và tiến hành niêm yết Thông báo thụ lý vụ án số 254/2023/TLST-HNGĐ ngày 09/10/2023 và các văn bản tố tụng khác của Tòa án theo quy định pháp luật. Nay chị K làm đơn xin ly hôn với anh T, quan điểm của địa phương là đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Về tài liệu, chứng cứ: Các đương sự cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ gồm:
- Nguyên đơn chị Hoàng Thị K cung cấp cho Tòa án: Đơn khởi kiện; 01 Giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); 01 Căn cước công dân mang tên Hoàng Thị K (bản sao chứng thực); 03 Giấy khai sinh mang tên Đặng Ngọc L, Đặng Thu H và Đặng Thu H (bản sao chứng thực); 01 xác nhận thông tin cư trú của Công an xã Bằng Cốc (bản chính);
- Bị đơn anh Đặng Văn T cung cấp cho Tòa án: Không có.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác, thông báo anh Đặng Văn T đến Tòa án làm việc để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định pháp luật. Tuy nhiên các lần thông báo của Tòa án anh T đều không đến làm việc nên Tòa án không tiến hành hòa giải được cho các bên đương sự suy nghĩ lại tình cảm để quay về hàn gắn, đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình. Vì vậy Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định chung của pháp luật.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:
- Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn chị Hoàng Thị K chấp hành tốt các quy định của pháp luật; Bị đơn anh Đặng Văn T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhiều lần nhưng đều vắng mặt không đến Tòa án làm việc nên Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T theo quy định pháp luật. Vì vậy có thể xác định anh Đặng Văn T đã cố tình trốn tránh nghĩa vụ của mình, nên vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
- Về việc giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 39, Điều 147, điểm e khoản 1 Điều 192; các Điều 227, 228, 235, 238, 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị K.
- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị K được ly hôn với anh Đặng Văn T.
- Về con chung: Giao cháu Đặng Ngọc L, sinh ngày 14/02/2010, cháu Đặng Thu H, sinh ngày 22/8/2011 và cháu Đặng Thu H, sinh ngày 02/9/2023 cho chị Hoàng Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Anh Đặng Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hoàng Thị K và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở; Các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.
- Về án phí: Chị Hoàng Thị K phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật; Anh Đặng Văn T không phải chịu tiền án phí.
Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo bản án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
- Về thẩm quyền: Chị Hoàng Thị K có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đặng Văn T nên xác định đây là vụ án “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; Theo thông tin chị K cung cấp và Tòa án xác minh thì hiện nay bị đơn anh Đặng Văn T là công dân đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn H, xã B, huyện H, tỉnh Tuyên Quang nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về việc vắng mặt của bị đơn anh Đặng Văn T tại phiên tòa: Qua xác minh tại địa phương nơi anh T cư trú, gia đình anh T và chính quyền địa phương cung cấp: Anh T thường xuyên đi làm ăn xa nhà, thi thoảng mới về thăm gia đình và địa phương. Trước khi chị K nộp đơn ly hôn lên Tòa án thì chị K đã thông báo cho anh T biết việc chị sẽ làm đơn ly hôn với anh T gửi Tòa án giải quyết, anh T biết nhưng không đến Tòa án làm việc. Vì vậy Tòa án đã tiến hành các thủ tục theo quy định pháp luật về thụ lý vụ án, mở phiên họp công khai chứng cứ, xét xử thông qua chị Hoàng Thị K (vợ anh T) và tại địa phương. Như vậy người bị kiện là anh Đặng Văn T đã cố tình trốn tránh nghĩa vụ nên Tòa án tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án theo thủ tục chung theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Đặng Văn T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị K và anh Đặng Văn T được tự do tìm hiểu và đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 13/5/2009 tại UBND xã B, huyện H, tỉnh Tuyên Quang, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán của địa phương. Như vậy, quan hệ hôn nhân của chị K và anh T là hợp pháp.
Quá trình chung sống tình cảm vợ chồng trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc bình thường, đến năm 2018 thì chị K và anh T thường xuyên đi làm ăn xa sau đó xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị K và anh T là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, luôn bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn phát triển kinh tế gia đình. Chị K xác định không còn tình cảm với anh T, mâu thuẫn vợ chồng đã quá căng thẳng, trầm trọng, không thể đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái. Thực tế chị K và anh T đã sống ly thân nhau từ năm 2020 đến nay mỗi người một nơi, không ai quan tâm thăm hỏi gì đến nhau nữa. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị K và anh T đã quá căng thẳng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không thể đoàn tụ để xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dậy con cái. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị K và xử cho chị K được ly hôn với anh Đặng Văn T theo quy định của pháp luật.
[3] Về con chung: Chị Hoàng Thị K và anh Đặng Văn T có 03 con chung là cháu Đặng Ngọc L, sinh ngày 14/02/2010, cháu Đặng Thu H, sinh ngày 22/8/2011 và cháu Đặng Thu H, sinh ngày 02/9/2013.
Từ khi vợ chồng anh chị sống ly thân đến nay cả ba cháu vẫn trực tiếp ở cùng chị Hoàng Thị K và do chị K trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Còn anh Đặng Văn T thường xuyên đi làm ăn xa không có mặt ở địa phương. Ly hôn chị Hoàng Thị K có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả ba cháu; nguyện vọng của ba cháu muốn được ở cùng chị K; Căn cứ kết quả xác minh tại địa phương thì cuộc sống của các cháu Đặng Ngọc L, Đặng Thu H và cháu Đặng Thu H vẫn đảm bảo cả về tinh thần, vật chất và được học tập đầy đủ khi ở với chị Hoàng Thị K. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần tuyên xử cho chị Hoàng Thị K được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả ba con chung. Anh Đặng Văn T được quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở, ngăn cấm. Các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.
Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Đặng Văn T không đến Tòa án làm việc nên không xác định được anh T có nguyện vọng cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hoàng Thị K không; Đồng thời chị Hoàng Thị K không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Do đó, Hội đồng xét xử xét không xem xét, giải quyết.
[4] Về tài sản chung, đất đai chung: Chị Hoàng Thị K xác định vợ chồng không có tài sản chung không đề nghị Toà án giải quyết nên HĐXX không xem xét, giải quyết.
[5] Về công nợ chung: Chị Hoàng Thị K xác định vợ chồng không vay nợ ai, không cho ai vay nợ, không đề nghị Toà án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị K phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm; Anh Đặng Văn T không phải chịu tiền án phí.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, Điều 39, Điều 147, điểm e khoản 1 Điều 192;
các Điều 227, 228, 235, 238, 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị K.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị K được ly hôn với anh Đặng Văn T.
2. Về con chung: Giao các con chung là cháu Đặng Ngọc L, sinh ngày 14/02/2010, cháu Đặng Thu H, sinh ngày 22/8/2011 và cháu Đặng Thu H, sinh ngày 02/9/2013 cho chị Hoàng Thị K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Anh Đặng Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Hoàng Thị K và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở; Các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.
3. Về án phí:
+ Chị Hoàng Thị K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo hình thức nộp trực tuyến tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001507 ngày 13/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Chị Hoàng Thị K đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
+ Bị đơn Đặng Văn T không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị K và anh Đặng Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 22/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 22/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về