Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 30/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 03 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1992. Địa chỉ: thôn C, xã L, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1988. Địa chỉ: thôn C, xã L, huyện H, tỉnh T, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 17/02/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Q trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H (nay là xã L), huyện H, tỉnh T ngày 04/12/2017. Vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, đỉnh điểm là từ tháng 5/2019 mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng,nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh H thường xuyên chửi bới, xúc phạm, đánh đập chị Q. Do chị đang mang thai nên việc vợ chồng mâu thuẫn đã ảnh hưởng đến tâm lý của chị, chị Q và anh H đã sống ly thân từ tháng 1/2021 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Q đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Chị Q khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Nguyễn Minh H, sinh ngày 25/7/2018, hiện nay cháu H đang ở với chị Q. Chị Q đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Về tài sản: Chị Nguyễn Thị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai đề ngày 15/3/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn là anh Nguyễn Văn H trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Q tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H (nay là xã L), huyện H, tỉnh T ngày 04/12/2017. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Q lạnh nhạt tình cảm với anh dẫn đến vợ chồng cãi chửi nhau, hiện nay chị Q đang mang thai cháu thứ hai với anh H. Anh H và chị Q đã sống ly thân từ tháng 2/2021 cho đến nay, thời gian ly thân anh H vẫn quan tâm đến vợ con nhưng chị Q từ chối và lạnh nhạt với anh. Nay chị Q đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh H cũng đồng ý.

Về con chung: Anh H khai, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Nguyễn Minh H, sinh ngày 25/7/2018, hiện nay cháu H đang ở với chị Q. Anh H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu chị Q phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, hiện anh đang làm nhân viên tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Mai Hương, thu nhập hàng tháng khoảng 12 triệu đồng.

Về tài sản: Anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên quan điểm của mình; Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa chị Q và anh H thuận tình ly hôn, chị Q đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:Anh Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải nhưng anh H không có mặt mà không có lý do nên Tòa án không tiến hành hoà giải được vụ án.

[2]. Về hôn nhân:Chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi chửi nhau.Theo biên bản xác minh ngày 29/3/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã L, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị Q và anh H là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Chị Q và anh H đã sống ly thân từ tháng 2/2021 cho đến nay. Thời gian vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm đến nhau, tại phiên tòa anh H cũng đồng ý ly hôn, vì vậy căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình giải quyết cho chị Q được ly hôn anh H là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Q và anh H thừa nhận, vợ chồng có một con chung, cháu tên là Nguyễn Minh H, sinh ngày 25/7/2018, hiện nay cháu H đang ở với chị Q. Cả chị Q và anh H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H. Tuy nhiên do cháu H chưa đủ 36 tháng tuổi nên giao cháu H cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị Q về việc không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị là phù hợp với quy định tạ Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Chị Quyên và anh Hoàng không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81;Điều 82; Điều 83; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6; khoản 5,Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Công nhận cháu Nguyễn Minh H, sinh ngày 25/7/2018 là con chung của chị Q và anh H. Giao cháu H cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Q.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Anh H không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấuđến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của chị Q.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Q đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0009310 ngày 08/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung, chị Q đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Q và anh H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 21/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;