Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 20/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 04/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tống Thị H, sinh năm 1983. Địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Thế V, sinh năm 1983. Địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh T, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 27/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Tống Thị H trình bày: Chị và anh Trịnh Thế V tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 19/01/2004. Vợ chồng chung sống đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn,nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh V có quan hệ ngoại tình với người khác nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Do không thể chung sống được nên chị H và anh V đã sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị H đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trịnh Thế V.

Về con chung: Chị H khai, vợ chồng có ba con chung, các cháu tên là Trịnh Thế H, sinh ngày 19/11/2004, cháu Trịnh Thế D, sinh ngày 10/4/2007 và cháu Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2017, hiện nay cả ba cháu H, D, P đang ở với chị H. Chị H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡngcả ba cháu H, D, P, yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị mỗi tháng mỗi cháu là 1 triệu đồng, ba cháu là 3.000000đ/1tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, hiện chị làm công nhân, thu nhập hàng tháng là 6 triệu đồng.

Về tài sản: Chị Tống Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai đề ngày 28/01/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn là anh Trịnh Thế V trình bày: Anh và chị Tống Thị H tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh T ngày 19/01/2004. Vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống nên vợ chồng cãi chửi nhau. Do không thể chung sống được nên anh V và chị H đã sống ly thân từ cuối năm 2017 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm đến nhau. Nay chị H đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, anh V không đồng ý.

Về con chung: Anh V khai, vợ chồng có ba con chung, các cháu tên là Trịnh Thế H, sinh ngày 19/11/2004, cháu Trịnh Thế D, sinh ngày 10/4/2007 và cháu Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2017, hiện nay cả ba cháu H, D, P đang ở với chị H. Anh V đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡngcả ba cháu H, D, P không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh, hiện anh làm ruộng thu nhập hàng tháng từ 6 đến 7 triệu đồng.

Về tài sản: Anh Trịnh Thế V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên quan điểm của mình; Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị H đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với anh V là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Giao cháu D và cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu H cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng, buộc anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng mỗi cháu là 1 triệu đồng, hai cháu là 2 triệu đồng/1 tháng cho đến khi các cháu D, P đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định tạiĐiều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không có khiếu nại về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng đều đúng quy định theo pháp luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân:Chị Tống Thị H và anh Trịnh Thế V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống.Theo biên bản xác minh ngày 09/3/2021 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị H và anh V là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống.Chị H và anh V đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Một thời gian dài vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ đời sống chung giữa chị H và anh V đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho chị H được ly hôn với anh V là phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị H và anh V thừa nhận, vợ chồng có ba con chung, các cháu tên là Trịnh Thế H, sinh ngày 19/11/2004, cháu Trịnh Thế D, sinh ngày 10/4/2007 và cháu Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2017, hiện nay cả ba cháu H, D, P đang ở với chị H. Cả chị H và anh V đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả ba cháu H, D, P. Tuy nhiên, cháu P còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ, cháu D có nguyện vọng được ở với mẹ; cháu H có nguyện vọng được ở với bố. Để tránh xáo trộn về tâm lý của các cháu cũng như căn cứ vào điều kiện nuôi dưỡng, giao cháu D và cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu H cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng, anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng mỗi cháu là 1 triệu đồng, hai cháu là 2 triệu đồng/1 tháng cho đến khi các cháu D, P đủ 18 tuổi, ghi nhận sự tự nguyện của anh V về việc không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về tài sản: Chị H và anh V không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Chị Tống Thị H và anh Trịnh Thế V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Tống Thị H và anh Trịnh Thế V.

2. Về con chung: Công nhận các cháu Trịnh Thế H, sinh ngày 19/11/2004, cháu Trịnh Thế D, sinh ngày 10/4/2007 và cháu Trịnh Thế P, sinh ngày 19/7/2017 là con chung của chị H và anh V. Giao cháu D và cháu P cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu H cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng, anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng mỗi cháu là 1 triệu đồng, hai cháu là 2 triệu đồng/1 tháng,thời hạn cấp dưỡng nuôi con chung tính từ tháng 4/2021 cho đến khi các cháu D, P đủ 18 tuổi, ghi nhận sự tự nguyện của anh V về việc không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Chị H, anh V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị H, Anh V không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Tống Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0009282 ngày 07/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung, chị H đã nộp đủ tiền án phí. Anh Trịnh Thế V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng )án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng định kỳ.

4. Về quyền kháng cáo: Chị H, anh V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 20/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;