Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 07/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 02 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 201/2020/TLST-HNGĐ, ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 25/01/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Phạm Văn Kh, sinh năm: 1973 Nơi ĐKHKTT: xã T, huyện TT, tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ - Nơi đăng ký tạm trú: Thôn a, xã H, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm: 1976 Nơi ĐKHKTT: xã T, huyện TT, tỉnh Thái Bình.

Địa chỉ - Nơi đăng ký tạm trú: Thôn a, xã H, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/10/2020, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Phạm Văn Khoa trình bày: Anh và chị Vũ Thị Huyền chung sống và đăng ký kết hôn năm 1999, đăng ký kết hôn tại UBND xã Hải Đông, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Việc đăng ký kết hôn hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn cuộc sống chung vợ chồng thời gian đầu diễn ra bình thường, nhưng càng về sau vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình, quan điểm sống không hợp nhau. Tình trạng này kéo dài, cả hai không có biện pháp khắc phục, nên từ năm 2019, anh và chị Huyền đã sống ly thân, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Đến nay tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống gia đình thực tế không tồn tại. Vì vậy, anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Vũ Thị Huyền.

- Về con chung: Quá trình chung sống anh và chị Vũ Thị Huyền có 03 con chung là Phạm Trung Kiên, sinh ngày 15/9/1997, Phạm Diễm Quỳnh, sinh ngày 10/8/2000 và Phạm Thành Đạt, sinh ngày 25/3/2008. Hai con chung Phạm Trung Kiên và Phạm Diễm Quỳnh đã trưởng thành, nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi dưỡng. Con chung Phạm Thành Đạt hiện đang ở với chị Huyền, do không muốn làm xáo trộn cuộc sống và việc học hành của con, anh để con chung Phạm Thành Đạt cho chị Huyền nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt cho chị Vũ Thị Huyền các Giấy triệu tập và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, nhưng chị Huyền từ chối nhận và vắng mặt các buổi làm việc tại Tòa án , vì vậy không có nội dung tự khai hoặc lấy lời khai thể hiện quan điểm của chị Huyền về việc giải quyết vụ án. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, chị Huyền cản trở và không đồng ý để Tòa án lấy lời khai của con chung về nguyện vọng của con chung Phạm Thành Đạt muốn ở với ai khi anh Phạm Văn Khoa và chị Vũ Thị Huyền ly hôn.

Các tài liệu chứng cứ anh Phạm Văn Khoa đã nộp kèm theo Đơn khởi kiện gồm: Giấy chứng nhận kết hôn (01 bản chính); Sổ hộ khẩu (01 bản sao); Sổ tạm trú (01 bản sao); Giấy chứng minh nhân dân (02 bản sao); Giấy khai sinh (03 bản sao).

Các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án: Bản tự khai của Nguyên đơn anh Phạm Văn Khoa; Biên bản xác minh tại chính quyền địa phương thôn 11, xã Hải Đông, thành phố Móng Cái. Biên bản về việc không lấy được lời khai của con chung;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Yêu cầu khởi kiện tranh chấp hôn nhân và gia đình của anh Phạm Văn Khoa thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình, anh Phạm Văn Khoa có quyền làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với chị Vũ Thị Huyền.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không tiến hành hòa giải được do bị đơn đã được giao Thông báo nhưng từ chối và không tham gia tố tụng, do đó Tòa án không tiến hành hòa giải phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chị Vũ Thị Huyền đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm 02 lần, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn anh Phạm Văn Khoa vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện, nội dung tự khai của anh Phạm Văn Khoa, nội dung xác minh và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn Khoa và chị Vũ Thị Huyền chung sống và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật năm 1999 trên cơ sở tự nguyện, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nhưng cả hai không có biện pháp khắc phục, dẫn đến vợ chồng đã sống ly thân từ năm 1999. Quá trình giải quyết tại Tòa án, bị đơn chị Vũ Thị Huyền không tham gia tố tụng, không có quan điểm về việc giải quyết vụ án, không thể hiện mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Tại Biên bản xác minh ngày 18/12/2020, chính quyền địa phương cung cấp: nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng anh Phạm Văn Khoa và chị Vũ Thị Huyền phát sinh do làm ăn thua lỗ dẫn đến xô xát, cả hai không cùng nhau tìm ra hướng giải quyết. Hội đồng xét xử thấy thực tế cuộc sống chung vợ chồng anh Phạm Văn Khoa và chị Vũ Thị Huyền không tồn tại, không có sự quan tâm, chăm sóc, vun vén cho hạnh phúc gia đình, do đó căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Phạm Văn Khoa.

- Về con chung: Hai con chung là Phạm Trung Kiên và Phạm Diễm Quỳnh đều đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đề cập việc nuôi dưỡng. Đối với việc nuôi dưỡng con chung Phạm Thành Đạt, Hội đồng xét xử thấy hiện nay cháu Đạt do chị Vũ Thị Huyền chăm sóc, nuôi dưỡng từ khi vợ chồng anh Khoa, chị Huyền sống ly thân; trong quá trình giải quyết vụ án chị Huyền không có quan điểm về việc nuôi dưỡng cũng như cấp dưỡng nuôi con chung và cũng không đồng ý để Tòa án lấy lời khai con chung về nguyện vọng muốn ở với bố hay mẹ; anh Khoa có nguyện vọng để cháu Đạt tiếp tục ở với mẹ để ổn định cuộc sống và việc học hành của cháu, do đó cần giao con chung Phạm Thành Đạt cho chị Vũ Thị Huyền nuôi dưỡng đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Phạm Văn Khoa không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Huyền.

- Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng: Anh Khoa trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị Huyền không có quan điểm về việc giải quyết tài sản chung, nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3] Về án phí: Anh Phạm Văn Khoa phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 26 Luật thi hành án dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phạm Văn K.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn Khoa được ly hôn chị Vũ Thị H.

2. Về con chung: Giao con chung là Phạm Thành Đ, sinh ngày 25/3/2008 cho chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Phạm Văn Khoa có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được phép cản trở anh Khoa thực hiện quyền này. Anh Khoa không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Vũ Thị Huyền.

3. Về án phí: Anh Phạm Văn K phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) anh Khoa đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000292 ngày 14/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Móng Cái. Anh Khoa đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 07/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;