Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, tranh chấp nuôi con số 210/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 210/2022/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 02 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 441/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình về ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 342/ 2 0 2 2 /QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 313/2022/QĐST- HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Cao Thị Tr, sinh ngày 15/7/1986; địa chỉ: ấp LQ, xã LB, huyện CM, tỉnh An Giang; (có mặt);

2. Bị đơn: Ông Đặng Văn U1, sinh ngày 19/6/1985; địa chỉ: ấp LQ, xã LB, huyện CM, tỉnh An Giang (vắng mặt);

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1955; địa chỉ: ấp LQ, xã LB, huyện CM, tỉnh An Giang (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Cao Thị Tr trình bày, giữa bà Tr và ông U1 tự tìm hiểu và tiến tới chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2007, hai bên gia đình có tổ chức hôn lễ. Khi về chung sống như vợ chồng, do không hiểu biết nên không đi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Chung sống đến ngày 09/5/2014 mới thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LB, huyện CM, tỉnh An Giang. Trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm, nên ông U1 thường bỏ đi về nhà cha mẹ ruột và đi làm tại Bình Dương, nhưng nguyên nhân mâu thuẫn chính là do ông U1 chơi bời, ăn nhậu thường xuyên, không quan tâm vợ con, gia đình, gây nợ nần; không chăm lo gia đình; mặc dù từ ngày 30/4/2022 đến nay, ông U1 sống tại nhà nhưng không quan tâm đến vợ con.

Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà Tr yêu cầu xin ly hôn với ông U1.

- Về con chung: giữa bà Cao Thị Tr và ông Đặng Văn U1 có 01 con chung tên Đặng Tây Đ, sinh ngày 18/12/2008. Hiện con chung đang chung sống với bà Tr. Sau khi ly hôn, bà Tr yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, yêu cầu ông U1 cấp dưỡng theo quy định pháp luật. Hiện nay, bà Tr đang bán nước đá, thu nhập bình quân mỗi ngày 300.000 đồng - 400.000 đồng. Bà Tr đủ điều kiện nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại khởi đề ngày 06/5/2022, Bà Tr có yêu cầu ông U1 và bà Tr liên đới trả cho bà Th số tiền 130.000.000 đồng. Nay bà Tr xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 130.000.000 đồng. Bà Tr xác định bà Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề nợ chung của hai vợ chồng.

- Bị đơn ông Đặng Văn U1 vắng mặt, nên không ghi nhận được ý kiến.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Th tại biên bản ghi nhận lời khai của đương sự ngày 01/6/2022 trình bày, không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề nợ giữa bà với ông U1, bà Tr.

Tại phiên tòa:

- Bà Cao Thị Tr trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không có tài liệu, chứng cứ khác giao nộp cho Tòa án chứng minh cho ý kiến, yêu cầu của mình, rU1 yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

- Ông Đặng Văn U1 vắng mặt, nên không ghi nhận được ý kiến, do ông U1 vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 mà không có lý do.

- Bà Nguyễn Thị Th vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với nguyên đơn: Bà Cao Thị Tr đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn: Ông Đặng Văn U1 đã được Tóa án tống đạt các văn bản đúng quy định nhưng vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà Tr.

- Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Th đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 73 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay có đơn đề nghị xét xử vặng mặt nên tiến hành xét xử vắng mặt bà Th là phù hợp theo Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Bà Cao Thị Tr và ông Đặng Văn U1, quen biết, tiến tới hôn nhân năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long Điền B năm 2014, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong thời gian nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn là do ông U1 không chăm lo gia đình, khi vợ chồng cãi nhau thì ông U1 lại bỏ nhà đi. Nhiều lần mâu thuẫn và từ ngày 30/4/2022, ông U1 đã đi đến nay không về nhà, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên bà Tr yêu cầu ly hôn với ông U1 là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Có 01 con chung tên Đặng Tây Đ, sinh ngày 18/12/2008, hiện con chung đang do bà Tr nuôi dưỡng, yêu cầu nuôi con và yêu cầu ông U1 cấp dưỡng nuôi con chung. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay, bà Tr rU1 lại yêu cầu cấp dưỡng nên đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này, cháu Đ sống với bà Tr ổn định vẫn phát triển về thể chất và tinh thần bình thường. Mặc khác, cháu Đ có nguyện vọng được sống với mẹ. Để ổn định cuộc sống của cháu Đ nghĩ nên để bà Tr tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu.

Về tài sản chung: Không có, nên không đề cập đến.

Về nợ chung: Trong đơn khởi kiện bà Tr yêu cầu ông U1 liên đới trả số tiền 130.000.000đồng cho Nguyễn Thị Th. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, Bà Tr rU1 lại yêu cầu khởi kiện đối với nợ chung nên cần đình chỉ theo Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Cao Thị Tr khởi kiện yêu cầu ly hôn với Ông Đặng Văn U1, cả bà Tr và ông U1 đều cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Cao Thị Tr trình bày do cả hai sau thời gian quen biết, nên đã tiến tới hôn nhân từ năm 2007, chung sống như vợ chồng, nhưng đến ngày 09/5/2014, có thực hiện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LB, huyện CM, tỉnh An Giang; bà Tr, ông U1 đều đủ diều kiện kết hôn theo quy định tạic Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Trong giai đoan chuẩn bị xét xử, cũng như tại phiên tòa, bà Tr khẳng định không còn tình cảm với ông U1, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc ông U1 ăn chơi, nhậu nhẹt, gây nợ nần, không chăm lo cho gia đình, giữa hai vợ chồng không đồng nhất về quan điểm sống, thường xuyên cự cãi, từ tháng 4/2022 đến nay mặc dù ông U1 vẫn sinh sống cùng địa phượng, gần nhà bà Tr đang sống, nhưng không chăm lo cho gia đình, vợ con. Trong giải đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã cấp, tống đạt các văn bản tố tụng đầy đủ cho ông U1, nhưng ông U1 không có mặt, để hàn gắn tình cảm vợ chồng, điều này chứng tỏ ông U1 đã từ bỏ quyền của mình. Cho thấy, tình cảm giữa bà Tr và ông U1 là có mâu thuẫn, nên tình trạng hôn nhân giữa bà Tr và ông U1 là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc bà Tr yêu cầu ly hôn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Tr.

[2.2] Về quan hệ con chung: Bà Tr xác định trong thời gian chung sống giữa bà với ông U1 chỉ có 01 con chung tên Đặng Tây Đ, sinh ngày 18/12/2008. Xét thấy, hiện nay cháu Đ đang được bà Tr chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định; bà Tr cũng yêu cầu nuôi con, điều này phù hợp với nguyện vọng của cháu Đ, mong muốn được sống với bà Tr trong trường hợp bà Tr, ông U1 ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu Đ, giúp cháu Đ phát triển tốt về thể chất, tinh thần, nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Đ cho bà Tr tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, tại phiên tòa bà Tr rU1 yêu cầu khởi kiện, đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử thống nhất đình chỉ xét xử đối với yêu cầu này.

[2.3] Về tài sản chung: bà Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét, giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: tại đơn khởi kiện, bà Tr có yêu cầu xem xét, giải quyết về nợ chung, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bà Tr rU1 toàn bộ yêu cầu về giải quyết nợ chung; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Th cũng không có yêu cầu, nên việc Tr rU1 yêu cầu là phù hợp quy định tại Điều 217, 244 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do vậy, Hội đồng xét xử thống nhất đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện về nợ chung với số tiền 130.000.000đồng.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Cao Thị Tr phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông Đặng Văn U1 không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 5, khoản 1 Điều 53, các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 217, 244, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn Bà Cao Thị Tr;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Cao Thị Tr được ly hôn với Ông Đặng Văn U1. Giấy chứng nhận kết hôn số 75/2014, quyển số 01/2014 ngày 09/5/2014 do Ủy ban nhân dân xã LB, huyện CM, tỉnh An Giang cấp cho bà Cao Thị Tr và ông Đặng Văn U1, không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho bà Cao Thị Tr được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Đặng Tây Đ, sinh ngày 18/12/2008. Ông Đặng Văn U1 không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Cao Thị Tr cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Đặng Văn U1 trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Cao Thị Tr về yêu cầu ông Đặng Văn U1 cấp dưỡng nuôi con chung.

4. Về quan hệ tài sản chung: không đề cập xem xét, giải quyết.

5. Về nợ chung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu trả nợ chung với số tiền 130.000.000đồng (một trăm ba mươi triệu đồng).

6. Về án phí sơ thẩm: Bà Cao Thị Tr phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004581 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 06 tháng 5 năm 2022; Bà Cao Thị Tr đã nộp đủ án phí.

Ông Đặng Văn U1 không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

7. Về quyền kháng cáo:

- Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, Bà Cao Thị Tr có mặt, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

- Riêng ông Đặng Văn U1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

464
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, tranh chấp nuôi con số 210/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:210/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;