TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 218/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 157/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 311/2021/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 343/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thúy E, sinh năm: 1985; nơi cư trú: ấp B, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Ông Hồ Văn K, sinh năm: 1979; nơi cư trú: ấp T, thị trấn L, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà E có đơn xin vắng mặt, ông K vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu kèm theo bà Nguyễn Thúy E trình bày: Bà và ông K do tự tìm hiểu yêu thương và bắt đầu sống chung vào năm 2004, đến năm 2011 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2008 phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do ông K thường xuyên uống rượu đến khi về nhà thì kiếm chuyện, nhiều lần bà góp ý thì ông K vẫn không thay đổi mà còn dùng bạo lực, mâu thuẫn kéo dài đến cuối năm 2018 ông K bỏ về nhà mẹ ruột ở, đến nay vẫn không liên lạc với gia đình. Trong thời gian ông bà ly thân gia đình hai bên cũng có hàn gắn nhưng ông K kiên quyết không chịu về chung sống. Nhận thấy tình cảm rạn nứt không thể hàn gắn , có quay về chung sống cũng không hạnh phúc, vì vậy bà yêu cầu được ly hôn với ông K.
Về con chung: Có 02 con chung tên Hồ Thị Thúy Ng, sinh ngày 31/01/2004; Hồ Văn P, sinh ngày 02/9/2007. Hiện 02 con chung đang sống với bà E. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.
Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Hồ Văn K theo quy định nhưng ông K không có mặt theo các thông báo của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của bà Nguyễn Thúy E và ông Hồ Văn K để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Chứng cứ mà Tòa án thu thập được: Xác định ông Hồ Văn K có nơi cư trú tại ấp T, thị trấn L, huyện A, tỉnh An Giang. Đồng thời, mâu thuẫn vợ chồng giữa ông bà đúng như lời trình bày của bà E.
Tại phiên tòa, bà E vắng mặt, tuy nhiên trong quá trình giải quyết vụ án bà đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Riêng ông K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông, bà theo thủ tục chung.
Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.
Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thúy E khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Hồ Văn K. Đồng thời, ông K cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.
Về sự vắng mặt của đương sự: Bà E vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; ông K vắng mặt lần hai không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông bà theo Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà E và ông K là do tự tìm hiểu, yêu thương nhau, đồng ý tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn trế hạn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L vào năm 2011 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ được xem là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Do đó, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.
[2.1] Xét yêu cầu của bà E xin ly hôn với ông K, Hội đồng xét xử xét thấy ông bà đã không chung sống với nhau từ cuối năm 2008 đến nay, bản thân bà E thừa nhận nhiều lần được gia đình hai bên hàn gắn nhưng ông bà không thể tiếp tục chung sống, ông K bỏ đi không liên lạc nên bà nhận thấy không có khả năng quay về chung sống. Nguyên nhân bà E trình bày phù hợp với nội dung xác minh của Tòa án tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của bà E là có căn cứ, được chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống có 02 con chung tên Hồ Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2004; Hồ Văn P, sinh ngày 02/9/2007, hiện con chung đang được bà E và gia đình chăm sóc.
Xét yêu cầu về con chung sau khi ly hôn của bà E dược tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung sóc Hội đồng xét thấy: Từ khi ly thân đến nay con chung được bà E cùng gia đình chăm sóc và phát triển tốt, Hội đồng xét xử xét thấy việc thay đổi chỗ ở, hoàn cảnh sống đột ngột sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sự phát triển của các cháu sau này. Đồng thời, theo nguyện vọng của cháu N và cháu P được tiếp tục sống với bà E.
Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy cần tiếp tục giao con chung cho bà E cùng gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng.
Hội đồng xét xử cũng giải thích cho bà E biết: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do bà E không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng công nhận sự tự nguyện này.
Hội đồng xét xử giải thích cho các đương sự biết: Bà E cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[2.3] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà E không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thúy E là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. Ông Hồ Văn K không phải chịu án phí nào khác.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 9, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thúy E.
1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thúy E được ly hôn với ông Hồ Văn K.
2. Về con chung: Bà Nguyễn Thúy E được tiếp tục nuôi cháu Hồ Thị Thúy N, sinh ngày 31/01/2004; Hồ Văn P, sinh ngày 02/9/2007, công nhận tự nguyện của bà Nguyễn Thúy E không yêu cầu ông Hồ Văn K cấp dưỡng nuôi con chung.
Bà E cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
3. Về án phí: Bà Nguyễn Thúy E phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006989 ngày 27/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú (Bà E đã nộp đủ).
4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30/6/2021), các đương sự được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 218/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 218/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về