TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 100/2024/DS-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ THANH TOÁN QUA TÀI KHOẢN
Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 133/2024/TLST-DS ngày 18 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2024/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 114/2024/QĐST-DS ngày 27 tháng 8 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần S (S1). Địa chỉ: 2 N, phường V, quận C, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Thị Ái N - Chức vụ: Chuyên viên khách hàng cá nhân - Ngân hàng Thương mại cổ phần S - Chi nhánh S2, Phòng G; địa chỉ: D - 428 P, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng, (Theo Quyết định v/v uỷ quyền ký hợp đồng/thảo thuận, văn bản và tham gia tố tụng số 3525/2023/QĐ-PC ngày 25 tháng 12 năm 2023 và Giấy uỷ quyền ngày 14 tháng 5 năm 2024), (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Đăng H - sinh năm: 1996; nơi cư trú: Tổ E, phường H, quận L, TP ., (Vắng mặt, không có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Đơn khởi kiện gửi đến Tòa án ngày 17 tháng 5 năm 2024, tại Bản tự khai ngày 11 tháng 10 năm 2022, trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (- Ngân hàng Thương mại cổ phần S (viết tắt là Ngân hàng S)) trình bày:
Ngày 16 tháng 12 năm 2022, ông Nguyễn Đăng H ký Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp thẻ tín cá nhân, bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S - Chi nhánh S2, Phòng G và được Ngân hàng cấp hạn mức tín dụng 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) với mục đích tiêu dùng cá nhân, lãi suất áp dụng 2,6%/tháng kể từ ngày 06 tháng 8 năm 2019, lãi suất 2,77%/tháng kể từ ngày 28 tháng 10 năm 2022 (Lãi suất trong hạn) và được Ngân hàng điều chỉnh phù hợp với quy định của Ngân hàng N1 về lãi suất cho vay.
Quá trình sử dụng thẻ, ông H đã thực hiện 02 khoản vay gồm: Vay tiêu dùng hạn mức tín dụng 50.000.000 đồng và vay tiền mặt thẻ tín dụng. Từ ngày kích hoạt đến nay, ông H đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 281.219.249 đồng (Hai trăm tám mươi mốt triệu hai trăm mười chín ngàn hai trăm bốn mươi chín đồng) đối với cả 02 khoản vay. Trong đó, đối với khoản vay tiêu dùng: Ông H đã thực hiện với 09 giao dịch với tổng số tiền 310.404.742 đồng (Ba trăm mười triệu bốn trăm lẻ bốn ngàn bảy trăm bốn mươi hai đồng) và đã thanh toán cho Ngân hàng được 10 lần với số tiền 272.001.914 đồng (Hai trăm bảy mươi hai triệu không trăm lẻ một ngàn chín trăm mười bốn đồng); đối với khoản vay tiền mặt thẻ tín dụng: ông H đã thực hiện 01 giao dịch với số tiền 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng) và đã thanh toán cho Ngân hàng được 06 lần với tổng số tiền 9.217.335 đồng (Chín triệu hai trăm mười bảy ngàn ba trăm ba mươi lăm đồng). Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của Điều khoản và điều kiện phát hành thẻ và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.
Do ông H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán tại Điều 2 của Điều khoản và điều kiện phát hành thẻ và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng nên ngày 25 tháng 2 năm 2022, Ngân hàng đã chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn và sau ngày 25 tháng 4 năm 2024 đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của ông H.
Ngân hàng khởi kiện đề nghị Toà án buộc ông H thanh toán số tiền nợ tạm tính đến ngày 12 tháng 8 năm 2024 là 64.189.970 đồng (Sáu mươi bốn triệu một trăm tám mươi chín ngàn chín trăm bảy mươi đồng), bao gồm: Nợ gốc 51.584.218 đồng, lãi quá hạn 12.605.752 đồng; buộc ông H tiếp tục trả lãi phát sinh từ ngày 13 tháng 8 năm 2024 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc ông H trả số tiền nợ tính đến ngày xét xử (- Ngày 12 tháng 9 năm 2024) là: 67.220.262 đồng (Sáu mươi bảy triệu hai trăm hai mươi ngàn hai trăm sáu mươi hai đồng), bao gồm: Nợ gốc 51.584.218 đồng, lãi quá hạn 15.636.044 đồng; buộc ông H tiếp tục trả lãi phát sinh từ ngày 13 tháng 9 năm 2024 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
* Quá trình giải quyết vụ án, ông H không có ý kiến trình bày gửi đến Toà án; không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải.
Xác minh tại Công an phường H, quận L thể hiện: Ông Nguyễn Đăng H có đăng ký nhân khẩu thường trú tại số nhà G đường L, tổ E, phường H; tuy nhiên, ông H đã bán nhà, đi khỏi địa phương từ năm 2021. Do vậy, Toà án thực hiện tống đạt văn bản tố tụng bằng hình thức niêm yết tại nơi đăng ký thường trú. Tại phiên toà, ông H vắng mặt lần hai, không có lý do.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu phát biểu: Thẩm phán đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn được quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự; việc thụ lý vụ án, thời hạn giải quyết, thu thâp chứng cứ, việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, việc tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng được thực hiện đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Thư ký phiên toà đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 51 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng nguyên tắc xét xử, đúng thành phần, đảm bảo các đương sự được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ. Việc hỏi, tranh luận được tiến hành khách quan, đúng trình tự theo quy định tại Mục 3 Chương 14 Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ và thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định tại các điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70 và 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 463, 466, 468 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả toàn bộ số tiền nợ 67.220.262 đồng và tiền lãi tiếp tục tính kể từ ngày 13 tháng 9 năm 2024 cho đến ngày thanh toán dứt nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về việc vắng mặt của bị đơn: Tại phiên tòa, bị đơn - ông Nguyễn Đăng H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H.
[1.2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp tín dụng phát sinh trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt nên Hội đồng xét xử xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”.
[2] Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S, Hội đồng xét xử thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, ông H không có văn bản phản đối yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Căn cứ vào Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ các tài liệu, chứng cứ do Ngân hàng cung cấp có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định:
Ngày 16 tháng 12 năm 2022, ông Nguyễn Đăng H có ký Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp thẻ tín dụng cá nhân với Ngân hàng S - Chi nhánh S2, Phòng G với hạn mức thẻ tín dụng được cấp là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng), mục đích tiêu dùng cá nhân; lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn và phí thực hiện theo Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.
Hợp đồng được kí kết theo sự tự nguyện của các bên và tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng. Hội đồng xét xử công nhận hợp đồng đã ký là hợp pháp, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch, xác định ông Nguyễn Đăng H nợ của Ngân hàng số tiền 67.220.262 đồng, bao gồm: Nợ gốc 51.584.218 đồng và lãi quá hạn 15.636.044 đồng.
Đến nay, ông H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán được quy định tại các điều 18, 19 và 23 của Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân của Ngân hàng S. Do ông H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ được quy định tại Điều 280 Bộ luật Dân sự và nghĩa vụ của người sử dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản được quy định tại khoản 15 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng và điểm b khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần S, buộc ông H phải thanh toán toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 12 tháng 9 năm 2024, bao gồm: Nợ gốc 51.584.218 đồng và lãi quá hạn 15.636.044 đồng, tổng cộng 67.220.262 đồng là hoàn toàn có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.
Lãi được tiếp tục tính từ ngày 13 tháng 9 năm 2024 theo mức lãi suất do Ngân hàng và ông H đã thỏa thuận tại Giấy đề nghị kiêm hợp đồng cấp thẻ tín dụng cá nhân, Điều khoản và điều kiện phát hành thẻ và sử dụng thẻ tín dụng cá nhân trên số tiền nợ chưa thanh toán cho đến khi thi hành án xong.
[3] Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 67.220.262 đồng x 5% = 3.361.013 đồng (Ba triệu ba trăm sáu mươi mốt ngàn không trăm mười ba đồng) theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 280 và 351 Bộ luật Dân sự; khoản 15 Điều 4 và Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; điềm b khoản 1 Điều 14 Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt; Điều 92, khoản 2 Điều 227, các điều 235 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần S đối với ông Nguyễn Đăng H về việc “Tranh chấp về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản” .
Xử: Buộc ông Nguyễn Đăng H phải thanh toán cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền nợ gốc 51.584.218 đồng và lãi quá hạn 15.636.044 đồng (Tính đến ngày 12 tháng 9 năm 2024), tổng cộng là 67.220.262 đồng (Sáu mươi bảy triệu hai trăm hai mươi ngàn hai trăm sáu mươi hai đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp trong hợp đồng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay, thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
2. Án phí dân sự sơ thẩm là 3.361.013 đồng (Ba triệu ba trăm sáu mươi mốt ngàn không trăm mười ba đồng) ông Nguyễn Đăng H phải chịu.
Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần S số tiền tạm ứng án 1.466.389 đồng (Một triệu bốn trăm sáu mươi sáu ngàn ba trăm tám mươi chín đồng) đã nộp tại biên lai thu số 0000626 ngày 29 tháng 5 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu.
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản số 100/2024/DS-ST
Số hiệu: | 100/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về