Bản án 88/2023/LĐ-ST về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 88/2023/LĐ-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 77/2023/TLST-LĐ ngày 19 tháng 6 năm 2023 về việc “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2023/QĐXXST-LĐ ngày 10 tháng 8 năm 2023, thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 661/2023/TB-TA ngày 11/8/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 105/2023/QĐST-LĐ ngày 05 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện V, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị N, sinh năm 1964 Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đ.

- Bị đơn: Công ty TNHH S;

Địa chỉ: Số nhà F, đường C, ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Phúc T - Chức vụ: Giám đốc.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ;

Địa chỉ: số B đường H, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Minh T1 - Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Phương H - Phó Chánh Văn phòng.

Địa chỉ: Số nhà B, đường H, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ.

(các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, đơn bổ sung, thay đổi, rút một phần yêu cầu khởi kiện và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn Bà Lê Thị N trình bày:

Bà vào làm việc cho Công ty TNHH S (từ đây viết tắt là công ty) (Công ty cũ là công ty TNHH T2) từ tháng 11/2009. Hợp đồng lao động hai bên ký kết không xác định thời hạn. Đến tháng 01/2020 Công ty T2 đổi chủ sở hữu và đổi tên thành Công ty N1, Công ty không ký kết hợp đồng lao động mới mà bà làm việc như cũ, công việc là công nhân sơn, mức lương đóng BHXH trước khi nghỉ việc: 4.971.576 đồng/tháng.

Trong thời gian làm việc tại Công ty, bà luôn hoàn thành nhiệm vụ. Bà không gửi đơn xin nghỉ việc nhưng ngày 05/11/2022, Công ty lại ban hành Quyết định số: 151/2022/QĐTV-AFM cho bà thôi việc kể từ ngày 05/11/2022 và lý do mà Công ty nêu ra là bà có đơn xin nghỉ việc. Sau khi nhận Quyết định giải quyết cho thôi việc thì bà không còn làm việc cho Công ty bắt đầu từ ngày 05/11/2022. Khi kiểm tra lại thông tin về bảo hiểm xã hội thì bà mới biết từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022, Công ty không đóng tiền bảo hiểm xã hội cho bà tổng là 02 năm 06 tháng (đã trừ đi thời gian không tham gia bảo hiềm xã hội do dịch bệnh).

Bà đã nhiều lần liên hệ lãnh đạo của Công ty đề yêu cầu Công ty đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội cho bà nhưng Công ty hứa hẹn hết lần này đến lần khác và cho đến nay thì Công ty đóng cửa, không còn hoạt động, không giải quyết cho bà.

Do vậy bà khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Tuyên bố Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà (Quyết định về việc giải quyết cho thôi việc số: 151/2022/QĐTV-AFM ngày 05/11/2022) là trái pháp luật. Buộc Công ty phải:

- Trả tiền lương trong những ngày bà không được làm việc, tính từ ngày 05/11/2022 đến ngày Toà án xét xử, với mức lương là 4.971.576 đồng/tháng là 34.801.032 đồng.

- Bồi thường cho bà khoản tiền bằng 02 tháng lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 4.971.576 đồng/tháng x 02 tháng = 9.943.152 đồng.

- Truy đóng BHYT, BHXH, BHTN cho bà trong những ngày bà không được làm việc từ ngày 05/11/2022 đến ngày Toà án xét xử là 7.482.222 đồng.

2. Buộc Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm cho bà theo quy định pháp luật.

Tuy nhiên tại đơn xin thay đổi bổ sung, rút một phần yêu cầu khởi kiện, bà thay đổi và rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Bà rút phần các yêu cầu tuyên bố công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà trái pháp luật; Buộc công ty phải bồi thường, trả tiền lương cho bà những ngày bà không được làm việc. Trong vụ án này, bà chỉ còn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022. Đồng thời Công ty phải thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà theo quy định của pháp luật.

* Bị đơn là Công ty TNHH S đã được tống đạt hợp lệ các văn bản theo trình tự tố tụng nhưng không tham gia tố tụng và không cung cấp tài liệu, văn bản trình bày ý kiến về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án:

* Người có quyền người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ do bà Đinh Thị Phương H đại diện trình bày:

Bà Lê Thị N, sinh năm 1964, mã số BHXH 7510005466, có quá trình tham gia đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (BHTNLĐ-BNN) tại Công ty TNHH S (T). Từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2022. Công ty không đóng bảo hiểm xã hội cho bà N.

Để xác nhận thời gian đóng BHXH (chốt sổ BHXH) cho bà N, Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà N từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 theo quy định vào Quỹ BHXH do cơ quan BHXH tỉnh quản lý.

* Ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định tại các Điều: 239, 243, 248, 249, 250, 251, 253, 254, 256, 260 và Điều 263 của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình tại các Điều 70, 71, 72, 86, 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình và không đến tham gia tố tụng mặc dù đã được thông báo, triệu tập nhiều lần nên việc Tòa án căn cứ khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228 và 238 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.

Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu này. Yêu cầu còn lại của bà N về việc buộc Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 theo quy định vào quỹ bảo hiểm xã hội do cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ quản lý. Đồng thời Công ty phải thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà N theo quy định của pháp luật là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của bà N và buộc bị đơn là Công ty TNHH S phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án:

Căn cứ vào quan hệ lao động và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Tòa án xác định quan hệ pháp luật của vụ án này là “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và Tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”.

Bị đơn là Công ty TNHH S có trụ sở chính tại Số F Đường C - C, ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đ nên căn cứ điểm d khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Đ.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do tất cả các đương sự đều vắng mặt tại phiên tòa nên theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự thì quyền kháng cáo của các đương sự được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

[3] Về nội dung tranh chấp:

3.1]. Công ty TNHH S là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo cụ thể yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo cũng như các tài liệu, chứng cứ khác mà Tòa án đã thu thập được. Đồng thời, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bị đơn không tham gia giải quyết vụ án, cũng không thực hiện nghĩa vụ chứng minh, cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do vậy, theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử căn cứ vào chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ để giải quyết vụ án.

3.2] . Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhận thấy: Theo trình bày của bà N thì bà vào làm việc cho Công ty TNHH S từ tháng 11/2009. Hai bên ký kết Hợp đồng lao động, công việc là công nhân sơn, mức lương đóng BHXH trước khi nghỉ việc: 4.971.576 đồng/tháng. Trong thời gian làm việc tại Công ty, bà luôn hoàn thành nhiệm vụ. Bà không gửi đơn xin nghỉ việc nhưng ngày 05/11/2022, Công ty lại ban hành Quyết định số: 151/2022/QĐTV-AFM cho bà thôi việc, kể từ ngày 05/11/2022 và lý do mà Công ty nêu ra là bà có đơn xin nghỉ việc. Sau khi nhận Quyết định giải quyết cho thôi việc thì bà không còn làm việc cho Công ty bắt đầu từ ngày 05/11/2022. Khi kiểm tra lại thông tin về bảo hiểm xã hội thì bà mới biết từ tháng 01/2020 đến khi bà nghỉ việc, Công ty không đóng tiền bảo hiểm xã hội cho bà. Những nội dung này đã được Tòa án thông báo cho Công ty TNHH S nhưng Công ty không có ý kiến phản đối. Đồng thời trình bày của bà phù hợp với ý kiến của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ. Như vậy giữa bà và Công ty TNHH S có quan hệ lao động và Công ty phải có nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm xã hội và xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà theo quy định tại khoản 1 Điều 19 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội.

3.3]. Theo thông tin do Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ cung cấp thì bà N có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội tại Công ty TNHH S và từ tháng 02/2010 đến tháng 10/2022. Công ty không đóng bảo hiểm xã hội cho bà N từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022, đề xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội (chốt sổ BHXH) cho bà N, Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà N từ tháng 01/2020 đến tháng định vào Quỹ BHXH do cơ quan BHXH tỉnh quản lý.

3.4]. Như vậy việc bà N yêu cầu Công ty phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 theo quy định vào Quỹ BHXH, đồng thời Công ty phải thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà N là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại khoản 5 Điều 21 Luật bảo hiểm xã hội khoản 3 Điều 47 của Bộ luật Lao động nên yêu cầu khởi kiện của bà N là có cơ sở chấp nhận.

3.5]. Đối với yêu cầu của bà N về việc tuyên bố Công ty TNHH S chấm dứt hợp đồng lao động với bà trái pháp luật; Buộc Công ty phải bồi thường, trả tiền lương cho bà những ngày bà không được làm việc thì bà đã rút. Việc bà rút yêu cầu khởi kiện này là tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Vì vậy đình chỉ những yêu cầu này.

[4]. Về án phí lao động sơ thẩm: Yêu cầu của bà N được chấp nhận nên Công ty TNHH S phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

[5]. Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm d khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, khoản 2 và khoản 4 Điều 91; Điều 147; Điều 217; Điều 218; khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235; Điều 238; Điều 244; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 3 Điều 47; Điều 186 của Bộ luật Lao động;

- Điều 18; khoản 1 Điều 19; khoản 2 và khoản 5 Điều 21 của Luật Bảo hiểm xã hội;

- Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tun xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị N đối với Công ty TNHH S về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội”.

1.1. Buộc Công ty TNHH S phải đóng bảo hiểm xã hội cho bà N từ tháng 01/2020 đến tháng 10/2022 (trừ đi những tháng dịch bệnh không làm việc được) theo quy định vào Quỹ BHXH do cơ quan BHXH tỉnh Đ quản lý.

1.2. Buộc Công ty TNHH S thực hiện xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội cho bà Lê Thị N theo quy định của pháp luật.

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị N đối với Công ty TNHH S về việc tuyên bố Công ty TNHH S chấm dứt hợp đồng lao động với bà trái pháp luật; Buộc Công ty phải bồi thường, trả tiền lương cho bà những ngày bà không được làm việc.

3. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty TNHH S phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

4. Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 88/2023/LĐ-ST về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Số hiệu:88/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;