Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 46/2024/LĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 46/2024/LĐ-PT NGÀY 09/04/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Trong ngày 09 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai Vụ án lao động thụ lý số 15/2024/TLPT-LĐ ngày 16 tháng 01 năm 2024 về việc "Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động".

Do Bản án lao động sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 948/2024/QĐPT-LĐ ngày 28 tháng 02 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 3603/2024/QĐPT-LĐ ngày 22 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thái Hoa N; sinh năm: 1984;

Địa chỉ: Số G đường L, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt;

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Huỳnh Chí C; sinh năm: 1989 (Giấy ủy quyền số công chứng 000928, Quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD lập ngày 25/02/2021 tại Văn phòng C1, Thành phố Hồ Chí Minh);

Địa chỉ: Số G đường C, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn T1 (đã giải thể);

Địa chỉ: Số A đường N, Phường H, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh;

Kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị đơn: Công ty cổ phần T2;

Người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần T2: Bà Huỳnh Tuấn Phương M; sinh năm: 1962 - Chức danh: Tổng Giám đốc;

Địa chỉ: Cụm C, xã L, huyện C, tỉnh Long An;

Người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần T2: Ông Huỳnh Huy H; sinh năm: 1958 - Giám đốc tài chính; địa chỉ: D Q, Phường F, thành phố T, tỉnh Long An (Giấy ủy quyền số 17/UQAL-2024 ngày 05/3/2024); có mặt.

Người kháng cáo: Nguyên đơn là bà Nguyễn Thái Hoa N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 24/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thái Hoa N có người đại diện theo ủy quyền là ông Huỳnh Chí C trình bày:

Bà Nguyễn Thái Hoa N và Công ty Trách nhiệm hữu hạn T1 (gọi tắt là Công ty T1) ký Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số LSCM/HDLD-2019/07-1 ngày 01/3/2019 với vị trí Trưởng phòng Phát triển kinh doanh và Cung ứng. Ngày 01/7/2020, Công ty T1 niêm yết thông báo quyết định từ tập đoàn sẽ chấm dứt hoạt động từ ngày 31/7/2020. Lý do là vì dịch Covid, tập đoàn muốn tập trung vào mảng dầu ăn là ngành kinh doanh chính của tập đoàn. Các mảng khác đang làm sẽ bàn giao cho nhà phân phối và Công ty T1 sẽ ngừng hoạt động.

Ngày 22/7/2020, bà N gửi thư cho Công ty T1 để hỏi về các trường hợp nhân sự trong phòng do bà phụ trách, phương án sẽ giải quyết và thời gian giải quyết ra sao sau khi có thông báo ngừng hoạt động. Công ty T1 trả lời sẽ chia làm 2 nhóm: nhóm chấm dứt hợp đồng lao động và nhóm thuyên chuyển qua công ty mẹ của Công ty T1 là Công ty cổ phần T2 (gọi tắt là Công ty T2). Bà N phản hồi trường hợp của mình và yêu cầu Công ty T1 cần giải quyết xong nghĩa vụ cũng như việc thanh lý hợp đồng lao động giữa bà N với Công ty T1 trước khi xem xét ký hợp đồng lao động mới với Công ty T2.

Ngày 24/7/2020, Công ty T1 gửi thông báo tới toàn thể nhân viên về việc công ty giải thể và ngừng hoạt động từ ngày 31/7/2020. Các hợp đồng lao động sẽ được giải quyết theo luật định nhưng cũng chưa đưa ra phương án giải quyết cho từng trường hợp cụ thể. Đồng thời, bà N có gửi thư cho Trưởng phòng Nhân sự và Tổng Giám đốc Công ty T1 yêu cầu gửi thư thông báo chính thức và đưa ra các hướng giải quyết với bà N. Ngày 01/9/2020, Trưởng phòng Nhân sự họp với từng nhân viên trao đổi về yêu cầu thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động và sẽ trình bày với Hội đồng quản trị. Ngày 04/9/2020, bà N đã gửi thư đề nghị Công ty T1 làm rõ các nội dung về việc giải quyết quyền lợi trước khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Ngày 17/9/2020, Công ty T1 gửi Thông báo số 03/2020/QĐ-LSCM về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà N kể từ ngày 02/11/2020. Bà N đã phản hồi không đồng ý với cách giải quyết trên cũng như việc chấm dứt hợp đồng lao động vào ngày 02/11/2020 vì mọi quyền lợi với người lao động chưa được thỏa thuận thống nhất và làm rõ. Ngày 18/9/2020, Công ty giải thích việc để tiến hành thủ tục giải thể nhanh nên trao đổi lại với người lao động để hiểu hoàn cảnh, khó khăn của nhau để đi đến thống nhất chung. Từ đó đến nay vẫn không có bất cứ phản hồi hợp lý nào về việc giải quyết thỏa đáng quyền lợi của người lao động sau cuộc họp trên.

Ngày 05/11/2020, bà N nhận được Quyết định thôi việc số LSCM/HR/QĐTV-11/01 từ Công ty T1. Mặc dù, Công ty T1 lấy lý do giải thể để chấm dứt hợp đồng lao động với bà N nhưng từ đó đến nay vẫn chưa có bất kỳ quyết định nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc công ty chính thức giải thể.

Bà N yêu cầu Tòa án tuyên buộc Công ty T1 thực hiện nghĩa vụ đối với bà N do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, cụ thể:

- Trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày bà N không được làm việc.

- Thanh toán toàn bộ tiền lương cho bà N tạm tính kể từ ngày 03/11/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là 2.112.000.000 đồng và bồi thường 02 tháng tiền lương theo mức lương bà N được hưởng là 128.000.000 đồng, tổng cộng 2.240.000.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn T1 (đã giải thể ngày 13/5/2021). Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng: Công ty Cổ phần T2 có người đại diện theo ủy quyền là ông Huỳnh Huy H trình bày:

Công ty Cổ phần T2 (gọi tắt là Công ty T2) là chủ sở hữu của Công ty T1 theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0315378405 ngày 07/11/2018 của Phòng đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H. Công ty T1 đã giải thể theo Thông báo số 325915/21 ngày 13/5/2021 của Phòng đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố H.

Quá trình chấm dứt hoạt động và giải thể Công ty T1 thực hiện đúng theo Nghị định số 78/2015/NĐ-CP và Luật Doanh nghiệp năm 2014. Quá trình kinh doanh từ khi thành lập đến khi chấm dứt hoạt động từ ngày 07/11/2018 đến ngày 31/7/2020 theo Biên bản kiểm tra thuế Công ty Lam Soon ngày 29/01/2021, Quyết định số 2545/QĐ-CT-KT ngày 31/12/2020 của Cục thuế Thành phố H về việc kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế với thời gian kiểm tra năm 2018-2020 và theo Báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập năm 2019 và năm 2020 (đến ngày 30/09/2020) thì:

- Năm 2019: Lỗ 5.768.563.257 đồng.

- Năm 2020 (từ ngày 01/01/2020 đến ngày 30/09/2020): Lỗ 5.341.582.250 đồng.

Tổng cộng lỗ năm (2019 - 2020): 11.110.145.507 đồng.

Đến ngày 30/9/2020, vốn chủ sở hữu của Công ty T1 còn sau khi lấy vốn điều lệ trừ đi tổng cộng lỗ: 11.675.000.000 đồng (vốn điều lệ) - 11.110.145.507 đồng (tổng cộng lỗ 2019-2020) = 564.854.493 đồng, số tiền lỗ này được ghi nhận tại mã số 310, tiểu mục 4.4 của Bảng cân đối kế toán - báo cáo tài chính (đã được kiểm toán) cho năm tài chính cuối cùng kết thúc tại ngày 30/9/2020.

Chi phí giải thể của Công ty T1 từ ngày 01/10/2020 (sau ngày kết thúc của báo cáo tài chính năm 2020) đến ngày 13/5/2021 (ngày thông báo về việc doanh nghiệp giải thể) là 270.809.564 đồng, trong đó chi nộp tiền phạt và truy thu thuế là 201.741.788 đồng.

Như vậy, vốn của Công ty T1 chỉ còn 564.854.493 đồng - 270.809.564 đồng = 294.044.929 đồng.

Đại dịch Covid-19 giai đoạn từ ngày 23/01/2020 đến ngày 30/12/2021 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả doanh nghiệp trên cả nước, hàng ngàn doanh nghiệp phải giải thể trong đó có Công ty T1.

Việt Nam đã trải qua 4 đợt bùng phát dịch Covid-19. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 173/QĐ-TTg Ngày 01/02/2020 về việc công bố dịch Covid-19 từ ngày 23/01/2020; Chỉ thị 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid-19; Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19; Quyết định số 447/QĐ-TTg ngày 01/4/2020 về việc công bố dịch Covid-19 trên toàn quốc từ ngày 23/01/2020. Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Chỉ thị 10/CT-UBND ngày 19/6/2021 về siết chặt và tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh; Công văn số 2279/UBND-VX ngày 08/7/2021 về áp dụng các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo tinh thần nội dung Chỉ thị số 16; Nghị quyết 86 ngày 06/8/2021 về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch; giao nhiệm vụ cho Thành phố Hồ Chí Minh phấn đấu kiểm soát được dịch trước ngày 15/9/2021; kế hoạch để thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch theo Nghị quyết 86 ngày 15/8/2021; Ngày 30/9/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Trong khi đó đại dịch C2 đang bùng phát khắp cả nước Việt Nam, đã được nhà nước công bố đại dịch theo Quyết định số 447/QĐ-TTg ngày 01/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc công bố dịch Covid-19 trên toàn quốc từ ngày 23/01/2020.

Chủ sở hữu Công ty T1 là Công ty T2 nhận thấy Công ty T1 hoạt động kinh doanh khoảng 2 năm kể từ ngày thành lập 07/11/2018 không có hiệu quả và vốn chủ sở hữu từ 11.675.000.000 đồng lúc thành lập, nay chỉ còn 564.854.493 đồng nên không thể tiếp tục hoạt động kinh doanh. Mỗi tháng Công ty T1 phải trả tiền thuê văn phòng 190.000.000 đồng/tháng, trả lương theo danh sách đến ngày 31/7/2023 đối với 13 lao động là 374.970.871 đồng/tháng. Với số vốn còn lại 564.854.493 đồng đến ngày 30/9/2020, nếu không chấm dứt hoạt động và giải thể thì Công ty T1 chỉ còn khả năng trả tiền thuê văn phòng và tiền lương cho 1 tháng tiếp theo chưa tính các chi phí khác; không còn tiền để trả tiền thuê văn phòng và tiền lương cho tháng thứ 2 trở về sau.

Ngày 21/7/2020, Công ty T2 lập tờ trình lấy ý kiến cổ đông công ty với nội dung chấm dứt hoạt động và giải thể công ty con của Công ty T2 là Công ty T1. Ngày 23/7/2020, Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2020, Công ty T2 biểu quyết thông qua Biên bản cùng ngày số: 01/2020-ĐHCĐ về việc chấm dứt hoạt động và giải thể công ty con của Công ty T2 là Công ty T1 theo khoản 1, Mục V của Biên bản đại hội cổ đông bất thường năm 2020 Công ty T2 ngày 23/7/2020. Căn cứ vào Biên bản đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2020 Công ty T2 số 01/2020/ĐHCĐ. Ngày 23/7/2020, Công ty T2 là chủ sở hữu của Công ty T1 phát hành Quyết định số 01/QĐ.ĐHCĐ chấm dứt hoạt động và giải thể công ty con là Công ty T1.

Theo quy định Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, ngày 24/7/2020 Công ty T1 thông báo chấm dứt hoạt động từ ngày 31/7/2020 và bắt đầu tiến hành thủ tục giải thể. Ngày 17/8/2020, Công ty T1 gửi thông báo về việc giải thể đến Phòng đăng ký kinh doanh (có Giấy xác nhận của Phòng đăng ký kinh doanh Thành phố Hồ Chí Minh). Sau khi kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ, ngày 22/8/2020 Phòng đăng ký kinh doanh Thành phố H công bố trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp tình trạng pháp lý của Công ty T1 là "Đang làm thủ tục giải thể" cũng là tình trạng pháp lý "chấm dứt hoạt động" theo khoản 1 và khoản 2 Điều 60 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/09/2015. Ngày 07/9/2020 thông báo trên Cơ sở D đăng ký doanh nghiệp Quyết định chấm dứt hoạt động và giải thể của Công ty T1.

Công ty T1 chấm dứt hợp đồng lao động theo khoản 7 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động như sau: "Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động." Theo khoản 1 Điều 59 về trình tự, thủ tục đăng ký giải thể tại Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp quy định: "Trước khi thực hiện thủ tục đăng ký giải thể doanh nghiệp, doanh nghiệp phải làm thủ tục chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp tại Phòng Đăng ký kinh doanh nơi đặt địa điểm kinh doanh." Theo khoản 1 và khoản 2 Điều 60 về chấm dứt hoạt động địa điểm kinh doanh tại Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/09/2015 quy định thủ tục và thời điểm chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp như sau: “1. Khi chấm dứt hoạt động địa điểm kinh doanh, doanh nghiệp gửi Thông báo về việc chấm dứt hoạt động địa điểm kinh doanh đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi đặt địa điểm kinh doanh.

2. Phòng Đăng ký kinh doanh nhận thông báo, kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ và chuyển tình trạng pháp lý của địa điểm kinh doanh trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp sang tình trạng chấm dứt hoạt động; đồng thời ra Thông báo về việc chấm dứt hoạt động địa điểm kinh doanh.Điểm a khoản 2 Điều 12 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ về việc Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động là: "Điều 12. Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động tại điểm c khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Lao động được quy định như sau: 2. Lý do bất khả kháng khác thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Do địch họa, dịch bệnh;" Quyết định số 447/QĐ-TTg ngày 01/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về công bố Đại dịch Covid-19: "Điều 1. Công bố dịch truyền nhiễm tại Việt Nam 1. Tên dịch bệnh: COVID-19 (dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra).

2. Thời gian xảy ra dịch: từ ngày 23 tháng 01 năm 2020.

3. Địa điểm và quy mô xảy ra dịch: toàn quốc." Do đó, thời điểm có thông báo chấm dứt hoạt động của Công ty T1 trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là ngày 22/8/2020 cũng là thời điểm đương nhiên chấm dứt tất cả hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động. Tuy nhiên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động chủ động tìm việc làm mới nên Công ty đã gửi Thông báo chấm dứt hợp đồng lao động vào ngày 02/11/2020 đến người lao động, trong đó có bà Nguyễn Thái Hoa N. Ngày 17/9/2020, Công ty T1 gửi bà Nguyễn Thái H1 Nhã Thông báo số 03/2020/QĐ-LSCM chấm dứt hợp đồng lao động đến hết ngày 02/11/2020. Như vậy, Công ty T1 đã thông báo chấm dứt hợp đồng lao động cho bà Nguyễn Thái H1 N biết trước 45 ngày là đúng quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012. Ngày 05/11/2020, Công ty T1 giao Quyết định thôi việc số LSCM/HR/QĐTV-11/01 ký ngày 05/11/2020 cho bà Nguyễn Thái Hoa N, trong đó ghi ngày thôi việc là ngày 02/11/2020.

Căn cứ vào các cơ sở pháp lý nêu trên thì việc chấm dứt hợp đồng lao động với bà Nguyễn Thái H1 N là đúng theo Điều 12 Nghị định 05/2015/NĐ-CP và Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012. Công ty T1 không vi phạm Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2012 là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thái Hoa N.

Trước khi chấm dứt hợp đồng lao động, Công ty T1 có đưa ra lời đề nghị mời bà Nguyễn Thái Hoa N làm việc tại Công ty T2. Tuy nhiên, bà N đã không chấp nhận lời đề nghị trên, cũng được xác nhận trong đơn khởi kiện. Khi thông báo về việc giải thể Công ty T1 vào ngày 24/7/2020, Công ty T1 có 13 lao động đang làm việc, sau đó có 06 lao động đồng ý nghỉ việc sau ngày 31/07/2020 để tìm việc làm nơi khác, còn lại 07 lao động làm việc đến hết ngày 02/11/2020 thì 03 người đồng ý chuyển qua Công ty T2 làm việc tiếp, còn 03 người tìm việc nơi khác. Bà Nguyễn Thái Hoa N không đồng ý chuyển qua làm việc cho Công ty T2 và cũng không muốn tìm việc nơi khác nên Công ty T1 phải chấm dứt hợp đồng lao động để hoàn thành thủ tục giải thể.

Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo quy định của pháp luật và khi thực hiện thủ tục giải thể Công ty T1, Công ty T2 đã có Công văn số 65/CV-AL20 ngày 09/9/2020 gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh L về việc: "Những nghĩa vụ của người sử dụng lao động đối với người lao động trong trường hợp doanh nghiệp giải thể do kinh doanh không hiệu quả." Ngày 16/9/2020, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh L đã có Công văn số 2619/SLĐTBXH-LĐVL&GDNN gửi Công ty T2.

Ngày 24/7/2020, Công ty T1 gửi bà Nguyễn Thái H1 Nhã Thông báo số 06/2020/QĐ-LSCM về việc quyền lợi của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động. Ngày 19/10/2020, Công ty T1 trả lương trước ngày chấm dứt hợp đồng lao động là ngày 02/11/2020, Công ty T1 chuyển số tiền 115.208.416 đồng vào tài khoản số 0071000705127 của bà Nguyễn Thái Hoa N tại Ngân hàng Thương mại cổ phần N1, chi nhánh Thành phố H, bao gồm: Tiền lương đến hết ngày 02/11/2020: 64.086.364 đồng; Phụ cấp và tiền ăn trưa: 2.822.727 đồng; T phép chưa nghỉ: 31.272.727 đồng; Lương tháng 13: 58.666.667 đồng. (Tổng cộng: 156.848.485 đồng); Khấu trừ thuế TNCN: 38.196.070 đồng; Khấu trừ BHXH (8%), BHYT (1,5%), BHTN (1%): 3.444.000 đồng; Số tiền còn lại sau khi khấu trừ thuế thu nhập cá nhân, các khoản bảo hiểm bắt buộc là: 115.208.415 đồng.

Ngày 19/10/2020, Công ty T1 đã thanh toán hết các khoản nợ có liên quan đến tất cả người lao động, trong đó có bà Nguyễn Thái Hoa N. Ngày 05/11/2020, giao Quyết định thôi việc số LSCM/HR/QĐTV-11/01 ký ngày 05/11/2020 cho bà Nguyễn Thái Hoa N, trong đó ghi ngày thôi việc là ngày 02/11/2020. Ngày 13/11/2020, Công ty T1 đã bàn giao bản chính tờ rời sổ bảo hiểm xã hội, chứng từ khấu trừ thuế thu nhập cá nhân, thư xác nhận thu nhập cho bà Nguyễn Thái H1 Nhã theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012. Như vậy, đến ngày 13/11/2020, Công ty T1 đã thanh toán khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của bà Nguyễn Thái H1 Nhã khi chấm dứt hợp đồng lao động.

Bên cạnh đó, Công ty T2 chỉ chịu trách nhiệm kế thừa quyền lợi và nghĩa vụ của Công ty T1 từ ngày 13/5/2021 trở về trước. Ngoài ra, sau khi giải thể, vốn chủ sở hữu chỉ còn lại 294.044.929 đồng, Công ty T2 chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số tiền còn lại 294.044.929 đồng theo Điều 1: "Phạm vi trách nhiệm" của Điều lệ Công ty T1 quy định: "Chủ sở hữu công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty." Công ty T1 đã thực hiện xong thủ tục giải thể theo đúng quy định pháp luật và hoàn tất toàn bộ thủ tục liên quan đến hợp đồng lao động đối với bà Nguyễn Thái Hoa N, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại Bản án lao động sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thái Hoa N về việc yêu cầu Tòa án tuyên:

- Công ty Trách nhiệm hữu hạn T1 (đã giải thể ngày 13/5/2021); kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng Công ty Cổ phần T2 đơn chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với bà Nguyễn Thái Hoa N.

- Thực hiện nghĩa vụ đối với bà Nguyễn Thái Hoa N do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật gồm trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày bà N không được làm việc và thanh toán tiền lương cho bà N tạm tính kể từ ngày 03/11/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là 2.112.000.000 đồng, bồi thường 02 tháng tiền lương là 128.000.000 đồng, tổng cộng là 2.240.000.000 đồng.

Ngoài ra, Bản án lao động sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự.

Ngày 28/8/2023, nguyên đơn - bà Nguyễn Thái H1 Nhã nộp đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu Tòa cấp phúc thẩm sửa bản án lao động sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn là bà Nguyễn Thái Hoa N không rút đơn kháng cáo, không rút đơn khởi kiện. Nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ là Vi bằng số 329/2023/VB-TPLVN ngày 18/9/2023 của Văn phòng T3. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

* Nguyên đơn là bà Nguyễn Thái Hoa N có người đại diện theo ủy quyền là ông Huỳnh Chí C trình bày: Công ty T1 lấy lý do giải thể để chấm dứt hợp đồng lao động với bà N nhưng từ đó đến nay vẫn chưa có bất kỳ quyết định nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc công ty chính thức giải thể. Công ty T1 không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh Công ty đã tìm mọi biện pháp khắc phục việc kinh doanh thua lỗ. Công ty T1 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà N trái pháp luật. Do đó, nguyên đơn đề nghị Tòa cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án lao động sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn - Ông Huỳnh Huy H trình bày:

Bị đơn không đồng ý toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn. Công ty T1 chấm dứt hợp đồng lao động với bà N vì lý do đại dịch Covid-19, Công ty kinh doanh thua lỗ nên phải giải thể. Công ty T1 chấm dứt hợp đồng lao động với bà N là đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở phúc thẩm như sau:

Về Đơn kháng cáo của nguyên đơn: Đơn kháng cáo nguyên đơn trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận.

Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong giai đoạn phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của nguyên đơn - bà Nguyễn Thái H1 Nhã trong hạn luật định và hợp lệ nên được chấp nhận.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn - bà Nguyễn Thái Hoa N.

Bà Nguyễn Thái Hoa N và Công ty T1 ký Hợp đồng lao động không xác định thời hạn số LSCM/HDLD-2019/07-1 vào ngày 01/3/2019 với vị trí Trưởng phòng Phát triển kinh doanh và Cung ứng. Mức lương chính: 61.300.000 đồng, phụ cấp điện thoại: 1.000.000 đồng; phụ cấp xăng: 1.000.000 đồng; phụ cấp tiền ăn: 700.000 đồng.

Từ đầu năm 2020, tình hình dịch bệnh Covid-19 bùng phát, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid-19; Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 và Quyết định số 447/QĐ-TTg ngày 01/04/2020 về việc công bố dịch Covid-19, thời gian xảy ra dịch từ ngày 23/01/2020, địa điểm và quy mô xảy ra dịch là toàn quốc. Do dịch bệnh bùng phát và diễn biến rất phức tạp làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều doanh nghiệp trên cả nước, Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Kế hoạch số 1455/KH-UBND ngày 21/4/2020 hỗ trợ doanh nghiệp trong và sau dịch SARS-CoV-2 từ nay đến ngày 31/12/2020 nhằm kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp thành phố nhanh chóng khắc phục khó khăn, sớm ổn định doanh nghiệp.

Căn cứ vào Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc lập năm 2019; năm 2020 (30/9/2020) thì đến ngày 30/9/2020 vốn chủ sở hữu của Công ty T1 còn 564.854.493 đồng. Như vậy, có cơ sở xác định do tình hình dịch bệnh đã làm hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty T1 gặp khó khăn và lợi nhuận sau thuế bị giảm sút.

Ngày 23/7/2020, Đại hội đồng cổ đông bất thường năm 2020, Công ty T2 biểu quyết thông qua Biên bản cùng ngày số 01/2020-ĐHCĐ về việc chấm dứt hoạt động và giải thể Công ty T1 theo khoản 1, Mục V của Biên bản đại hội cổ đông bất thường năm 2020 Công ty T2 ngày 23/7/2020. Lý do giải thể: do dịch Covid-19 ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh Công ty L và rất khó có cơ hội phục hồi và phát triển trong thời gian tới. Thời gian chấm dứt hoạt động ngày 31/7/2020.

Ngày 24/7/2020, Công ty T1 gửi thông báo tới toàn thể nhân viên về việc công ty giải thể và ngừng hoạt động từ ngày 31/7/2020. Ngày 17/9/2020, Công ty T1 gửi Thông báo số 03/2020/QĐ-LSCM về việc chấm dứt hợp đồng lao động đối với bà N kể từ ngày 02/11/2020. Công ty T1 biết trước "ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn" theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 38 của Bộ luật Lao động năm 2012.

Ngày 24/7/2020, Công ty T1 thông báo chấm dứt hoạt động từ ngày 31/7/2020, bắt đầu tiến hành thủ tục giải thể và chính thức giải thể ngày 13/5/2021. Điểm c Khoản 1 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định những trường hợp người sử dụng lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động: "Do thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác theo quy định của pháp luật, mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc"; Lý do bất khả kháng được xác định bao gồm "địch họa, dịch bệnh" (điểm a khoản 2 Điều 12 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động). Qua các tài liệu, chứng cứ bị đơn trình bày thể hiện Công ty T1 tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể tiếp tục kinh doanh mà buộc phải tiến hành giải thể công ty V và chấm dứt hợp đồng lao động với bà N là có căn cứ. Công ty T1 thực hiện thủ tục giải thể đúng quy định pháp luật.

Theo Điểm a, khoản 1 Điều 6 Bộ luật Lao động năm 2012: Người sử dụng lao động có quyền a) Tuyển dụng, bố trí, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh... Như vậy, việc lựa chọn sử dụng người lao động (đang làm việc trong doanh nghiệp) trong thời điểm khó khăn do dịch bệnh là quyền của người sử dụng lao động được pháp luật cho phép. Công ty T1 cũng đã có thiện chí đưa ra đề nghị mời bà Nguyễn Thái Hoa N làm việc tại Công ty T2 với chức danh chuyên môn Trưởng phòng Cung ứng kiêm Phát triển thị trường với mức thu nhập tương đương với thu nhập của bà N tại Công ty T1 nhưng bà N không đồng ý và yêu cầu Công ty T1 phải giải quyết xong quyền lợi của bà N, cũng như việc thanh lý hợp đồng lao động giữa bà N với Công ty T1 trước khi xem xét ký hợp đồng lao động mới với Công ty T2.

Ngày 19/10/2020, Công ty T1 đã thanh toán khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của bà Nguyễn Thái H1 Nhã theo Thông báo số 06/2020/QĐ-LSCM ngày 24/9/2020. Ngày 13/11/2020, Công ty T1 đã bàn giao bản chính tờ rời sổ bảo hiểm xã hội, chứng từ khấu trừ thuế thu nhập cá nhân, thư xác nhận thu nhập cho bà Nguyễn Thái H1 Nhã theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Bộ luật Lao động năm 2012.

Từ những phân tích nêu trên, Tòa cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do đó, Tòa cấp phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn - bà Nguyễn Thái Hoa N. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ nên chấp nhận.

[3] Về án phí:

[3.1] Án phí lao động sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thái Hoa N không phải chịu án phí lao động sơ thẩm

[3.2] Về án phí lao động phúc thẩm:

Người kháng cáo - bà Nguyễn Thái H1 Nhã được miễn án phí lao động phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Điều 1, Điều 7, Điều 15, Điều 36, Điều 38; Khoản 1 Điều 201, Khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Lao động năm 2012;

- Căn cứ vào Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động;

- Căn cứ vào Khoản 3 Điều 85 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;

- Căn cứ vào Luật Phí, lệ phí năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014);

Tuyên xử:

Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của nguyên đơn - bà Nguyễn Thái Hoa N. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 660/2023/LĐ-ST ngày 22 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thái Hoa N về việc yêu cầu Tòa án tuyên:

- Công ty Trách nhiệm hữu hạn T1 (đã giải thể ngày 13/5/2021); kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng Công ty cổ phần T2 đơn chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với bà Nguyễn Thái Hoa N.

- Thực hiện nghĩa vụ đối với bà Nguyễn Thái Hoa N do đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật gồm trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày bà N không được làm việc và thanh toán tiền lương cho bà N tạm tính kể từ ngày 03/11/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là 2.112.000.000 đồng, bồi thường 02 tháng tiền lương là 128.000.000 đồng, tổng cộng là 2.240.000.000 đồng.

2. Về án phí:

2.1. Án phí lao động sơ thẩm: Nguyên đơn - bà Nguyễn Thái H1 Nhã được miễn án phí lao động sơ thẩm;

2.2. Án phí lao động phúc thẩm: Nguyên đơn - bà Nguyễn Thái H1 Nhã được miễn án phí lao động phúc thẩm.

3. Các đương sự thi hành án tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 46/2024/LĐ-PT

Số hiệu:46/2024/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 09/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;