TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 368/2024/DS-PT NGÀY 04/05/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 04 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 542/DSPT ngày 20 tháng 11 năm 2023 về “tranh chấp đòi tài sản là quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 77/2023/DS-ST, ngày 31/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 87/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
1. Ông Nguyễn Nhật T, sinh năm 1940 (vắng mặt tại phiên tòa);
2. Anh Nguyễn Nhật T1, sinh năm 1967 (có mặt tại phiên tòa);
Nơi thường trú: Tiểu khu xx, xã Cò L, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Nhật T là ông Nguyễn Nhật T1 (đồng nguyên đơn trong vụ án này).
Bị đơn: Ông Nguyễn Nhật M, sinh năm 1947 (có mặt tại phiên tòa);
Địa chỉ; Thôn x, xã Cát Q, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Nhật T2, sinh năm 1970 (vắng mặt tại phiên tòa);
2. Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1968 (vắng mặt tại phiên tòa);
3. Anh Nguyễn Nhật C, sinh năm 1989 (vắng mặt tại phiên tòa);
4. Anh Nguyễn Nhật S, sinh năm 1980 (vắng mặt tại phiên tòa);
5. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1975 (vắng mặt tại phiên tòa);
6. Anh Nguyễn Nhật Th, sinh năm 1973 (vắng mặt tại phiên tòa);
7. Chị Đặng Thị L, sinh năm 1975 (vắng mặt tại phiên tòa);
8. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1934 (vắng mặt tại phiên tòa);
9. Chị Hồ Thị L, sinh năm 1970 (vắng mặt tại phiên tòa);
10. Anh Nguyễn Nhật H, sinh năm 1990 (vắng mặt tại phiên tòa);
Cùng trú tại: Tiểu khu xx, xã Cò L, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Nhật T1, sinh năm 1967 (là nguyên đơn trong vụ án này, ông T1 có mặt tại phiên tòa).
11. Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1951 (vắng mặt tại phiên tòa);
12. Anh Nguyễn Nhật D, sinh năm 1976 (có mặt tại phiên tòa);
13. Anh Nguyễn Nhật Ch, sinh năm 1979 (vắng mặt tại phiên tòa);
14. Chị Nguyễn Thị H2, sinh năm 1982 (vắng mặt tại phiên tòa);
15. Cháu Phan Ánh D, sinh năm 2011 (vắng mặt tại phiên tòa);
16. Cháu Phan Hồng N, sinh năm 2013 (vắng mặt tại phiên tòa);
17. Cháu Phan Ngân H, sinh năm 2015 (vắng mặt tại phiên tòa);
Đại diện cho cháu D, cháu N, và cháu H là bà H2 mẹ đẻ của cháu; Cùng trú tại: Thôn x, xã Cát Q, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
18. Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1986 (vắng mặt tại phiên tòa);
Trú tại: Thôn z, xã Cát Q, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội
19. UBND xã Cát Q, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn L - Chủ tịch UBND xã Cát Q (vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn - ông Nguyễn Nhật T và anh Nguyễn Nhật T1 trình bày:
Về nguồn gốc thửa đất gia đình ông T và anh T1 đang tranh chấp với ông M là đất màu Nhà nước giao cho gia đình anh T1 và gia đình ông T từ năm 1992. Nhà nước giao cho 12 nhân khẩu gồm gia đình anh T1 có 3 nhân khẩu, gia đình ông T có 9 nhân khẩu. Gia đình ông T được cấp 305m2, gia đình anh T1 được cấp 101m2, 2 thửa đất này riêng biệt, nhưng giáp nhau và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi giao đất, gia đình anh T1 và gia đình ông T sử dụng đến năm 1995 thì cho ông M mượn toàn bộ 2 thửa đất này. Khi cho mượn không có giấy tờ gì, không nói thời hạn trả mà chỉ nói khi nào cần thì ông M phải trả lại cho gia đình ông T1 và ông T. Quá trình sử dụng, ông M xây dựng nhà trên đất nhưng không thông báo và không xin phép gì gia đình anh T1 và gia đình ông T, nhưng UBND xã đến lập Biên bản về việc xây dựng nhà trái phép trên đất nông nghiệp. Mặc dù gia đình anh T1 và gia đình ông T cho gia đình ông M mượn nhưng gia đình anh T1 và gia đình ông T vẫn nộp thuế hàng năm. Ngày 12/4/2021 UBND huyện Hoài Đức có quyết định thu hồi diện tích của hộ gia đình ông T 152,4m2, khi Nhà nước thu hồi và trả tiền đền bù tiền đất thì gia đình ông T nhận còn tiền đền bù hoa màu thì gia đình ông M nhận. Diện tích còn lại của gia đình ông T là 152,6m2, diện tích của gia đình anh T1 vẫn là 101m2. Tổng cộng 2 thửa còn 253,6m2, trong đó gia đình ông M hiện đang quản lý 233,4m2, còn 20m2 ở bên kia đường gia đình ông quản lý.
Theo đo đạc thực tế, diện tích gia đình ông M đang quản lý, sử dụng là 340,3m2, so với diện tích của gia đình anh T1 và gia đình ông T còn thừa 106,9m2, diện tích đất thừa này là khi Nhà nước giao đất, thửa đất của gia đình anh T1 và gia đình ông T ở cuối thửa nên khi giao còn một phần diện tích thừa này giao luôn cho gia đình anh T1 và gia đình ông T sử dụng.
Gia đình anh T1 và gia đình ông T có 2 hộ khẩu riêng, khi Nhà nước chia đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính Phủ, chia riêng từng hộ nhưng liền kề nhau, cụ thể gia đình anh T1 có 3 khẩu được cấp đất nông nghiệp gồm anh Nguyễn Nhật T1, sinh năm 1967, chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1968 và con trai là Nguyễn Nhật C sinh năm 1989, còn gia đình ông T có 09 khẩu được cấp đất nông nghiệp gồm, ông Nguyễn Nhật T, sinh năm 1940, bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1934, anh Nguyễn Nhật T2, sinh năm 1970, chị Hồ Thị L, sinh năm 1970, anh Nguyễn Nhật H, sinh năm 1990, anh Nguyễn Nhật Th, sinh năm 1973, chị Đặng Thị Ng, sinh năm 1973, chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1975, anh Nguyễn Nhật S, sinh năm 1980.
Toàn bộ những người trên hiện tại đang ở Tiểu khu xx, xã Cò Nòi, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Gia đình anh T1 và gia đình ông T chuyển lên làm kinh tế ở Sơn La từ năm 1988, nhưng sổ hộ khẩu vẫn ở xã Cát Q, huyện Hoài Đức. Năm 1992 Nhà nước chia lại đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính Phủ, gia đình anh T1 và gia đình ông T vẫn được chia đất nông nghiệp và trực tiếp nhận đất.
Gia đình anh T1 được chia 3 thửa gồm: Thửa số 228/5 tờ bản đồ số 4 diện tích 398m2 tại V3-T7; Thửa số 15/2 tờ bản đồ số 6 diện tích 101m2 tại Sau Đền; Thửa số 325/27 tờ bản đồ số 4 diện tích 30m2 tại Ganh Mạ. Tổng diện tích là 529m2.
Hộ ông Nguyễn Nhật T được cấp 1.592m2 và được cấp 5 thửa gồm: Thửa số 197/9 tờ bản đồ số 4 diện tích 360m2 tại V2-T6; Thửa số 236/3 tờ bản đồ số 4 diện tích 513m2 tại V3-T7; Thửa số 246/7 tờ bản đồ số 4 diện tích 324m2 tại V4-T7; Thửa số 15/1 tờ bản đồ số 6 diện tích 305m2 tại Sau Đền; Thửa số 325/28 tờ bản đồ số 4 diện tích 90m2 tại Ganh ngoài.
Sau khi Tòa án xem xét thẩm định và đo đạc thực tế diện tích đất đang tranh chấp dôi dư là 106,9m2 so với tiêu chuẩn gia đình anh và gia đình ông T được cấp anh xin nhận lại vì khi giao đất chính quyền đã giao nguyên thửa đất cho gia đình anh T1 và gia đình ông T nên phần diện tích đất này là của gia đình anh T1 và gia đình ông T.
Đối với Đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29/11/2000 do bị đơn cung cấp, phía gia đình anh T1 và gia đình ông T không biết và không ký vào tờ giấy này, trong đơn có chữ ký của ông T, bà S, ông T2 và bà S2, anh T1 khẳng định bố mẹ anh không biết chữ nên không thể ký vào đơn xin chuyển nhượng đất màu được.
Nay anh T1 đại diện theo ủy quyền của ông T khởi kiện yêu cầu, buộc gia đình ông M phải trả lại toàn bộ diện tích ông M đang sử dung là 233,4m2 (trong đó gia đình anh T1 là 101m2, gia đình ông T là 132,4m2) các công trình xây dựng trái phép anh đề nghị gia đình ông M phải dỡ bỏ, còn cây cối, hoa màu gia đình anh và gia đình ông T thanh toán tiền theo giá của hội đồng định giá đưa ra.
Quá trình tố tụng ông T trình bày bổ sung: Ông T không biết chữ nên không thể ký vào Đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29/11/2000 được, trước đây ông có cho ông M mượn đất để canh tác chứ ông không cho, không chuyển nhượng và cũng không đổi. Gia đình ông M không giao cho gia đình ông thửa đất nào vì gia đình ông đi Sơn La từ lâu nên không có ai ở nhà để canh tác, đất nông nghiệp theo tiêu chuẩn của gia đình ông cũng không ai sử dụng mà cho người khác làm, nên không có việc ông M đổi và trả đất cho gia đình ông để lấy thửa đất khác của gia đình ông M.
Đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29/11/2000 ông không biết ai viết, chữ ký T và chữ viết Nguyễn Nhật T không phải của ông vì ông không biết chữ nên ông không thể ký và viết được. Ông M cho rằng gia đình ông đưa cho ông M Đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29/11/2000 này là không đúng, ông cũng không biết ông M lấy văn bản này ở đâu, mặc dù không phải chữ ký của ông nhưng ông không đề nghị giám định vì văn bản này không phải do ông xuất trình.
Nay ông ủy quyền cho anh T1, đề nghị gia đình ông M phải trả lại diện tích đất nông nghiệp cho gia đình ông sau khi trừ đi phần diện tích đã thu hồi, ông không đồng ý trích công sức trông nom thửa đất này cho ông M, gia đình ông M phải dỡ bỏ công trình để trả lại đất cho gia đình ông, gia đình ông đồng ý thanh toán giá trị cây cối theo biên bản định giá cho ông M.
Bị đơn - ông Nguyễn Nhật M trình bày:
Ông M với ông T là anh em con chú con bác, bà Nguyễn Thị S là vợ của ông T về nhà ông và nói: “ bác bán mất nhà thì vợ chồng em không có gì giúp bác, vợ chồng em giúp bác miếng đất để làm nhà ở khu sau Đền”. Năm 1995 ông T, bà S thấy ông bán mất nhà, ông T bà S nói giúp ông miếng đất để ông làm nhà, ông yêu cầu ông T, bà S về nhà thảo luận vợ chồng con cái lấy bao nhiêu tiền để ông trả, ông T, bà S bàn bạc gia đình xong và nói với ông là ông có 5 hay 7 thước đất nông nghiệp thì trả cho ông T, bà S nên ông đồng ý và trả 11 thước ở vùng 3 tuyến 7, đất này là khẩu của 2 con trai ông là anh Nguyễn Nhật D và anh Nguyễn Nhật Ch, ông M lấy đất của ông T, bà S 17 thước ở khu sau Đền Vật.
Năm 2000 ông T, bà S mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về và làm thủ tục cho Nguyễn Nhật D để đóng thuế và đề nghị UBND xã Cát Q chứng nhận cho 2 gia đình, gia đình ông đã làm nhà trên thửa đất này từ năm 1995.
Năm 2020 Nhà nước thu hồi 6 thước đất mà gia đình ông đã đổi cho gia đình ông T, bà S, khi Nhà nước trả tiền bồi thường, tiền đất thì ông T lấy còn tiền công trình trên đất thì gia đình ông M lấy gồm tiền nhà và cây cối trên đất. Hiện tại 11 thước trên phần đất này có nhà, khi đổi đất hai bên không làm giấy tờ gì. Số đất 11 thước của hai con trai ông vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lý do năm 1988 gia đình ông đi làm kinh tế mới ở Lâm Đồng, nên chỉ được cấp đất nông nghiệp của 02 con trai không đi làm kinh tế còn 05 khẩu đi vào Lâm Đồng sinh sống.
Khi Nhà nước thu hồi, gia đình ông được nhận tiền công trình cây cối được 45.174.000đ, tiền đất ông T lấy. Lý do ông không lấy tiền đất vì gia đình ông đổi chỉ có 11 thước nên gia đình ông cũng không lấy đất, khi gia đình ông ở đó ông phải tôn nền như hiện nay cao 1,5m, khi tôn nền thì cả gia đình cùng tham gia, vì hai bên đã đổi nên khi gia đình ông xây nhà gia đình ông không phải hỏi gia đình ông T.
Đối với Đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29 tháng 11 năm 2000 là do bà S mang về cho con trai ông là Nguyễn Nhật D, mục đích của đơn xin chuyển nhượng đất màu là do gia đình bà S, ông T và ông T1 đồng thuận cho con trai ông là Dũng, chứ không bán mua đổi chác gì. Giấy này ông không biết ai viết.
Nay ông T, anh T1 yêu cầu gia đình ông trả phần đất hiện gia đình ông đã xây nhà ông không đồng ý, vì gia đình ông T đã đổi cho ông từ năm 1995, hiện tại gia đình ông không có chỗ ở nào khác.
Đối với diện tích đất còn thừa so với tiêu chuẩn của ông T và ông T1 là 106,9m2, theo ông 2 thửa đất này giáp mương nên khi ông T giao đất cho ông đồng thời giao luôn cả phần dôi dư, gia đình ông là người đóng thuế đối với diện tích đất gia đình ông đang sử dụng.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
1. Anh Nguyễn Nhật D trình bày: Anh với anh T1 là anh em con chú con bác, anh T1 gọi anh là anh. Nguồn gốc thửa đất hiện tại ông T và anh T1 yêu cầu ông M và anh phải trả có nguồn gốc như sau: năm 1995 ông T, bà S thấy gia đình anh bán mất nhà, ông T bà S nói giúp anh miếng đất để gia đình làm nhà, bố mẹ anh yêu cầu ông T bà S về nhà thảo luận vợ chồng con cái lấy bao nhiêu tiền để gia đình anh trả, ông T, bà S bàn bạc gia đình xong và nói với gia đình anh là gia đình anh có 5 hay 7 thước đất nông nghiệp thì trả cho ông T, bà S. Gia đình anh đã đồng ý và trả 11 thước ở vùng 3 tuyến 7, đất này là khẩu của 2 anh em là Nguyễn Nhật D và Nguyễn Nhật Ch, gia đình anh lấy đất của ông T, bà S 17 thước ở khu sau Đền Vật, gia đình anh đã làm nhà trên thửa đất này từ năm 1995.
Năm 2020 Nhà nước thu hồi 6 thước đất mà gia đình anh đã đổi cho gia đình ông T, bà S, khi Nhà nước trả tiền bồi thường tiền đất thì ông T lấy, còn tiền công trình trên đất thì gia đình anh lấy gồm tiền nhà và cây cối trên đất. Khi đổi đất hai bên không làm giấy tờ gì. Diện tích đất theo tiêu chuẩn của anh và anh Ch chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lý do năm 1988 gia đình anh đi làm ăn ở vùng kinh tế mới ở Lâm Đồng. Khi đổi cho ông T, gia đình ông T đề nghị gia đình anh trông nom hộ, khi nào Nhà nước lấy thì về lấy tiền, hiện tại gia đình anh đang sử dụng vào cấy lúa. Phần đất của gia đình ông T gia đình anh đã làm nhà từ năm 1995, hiện tại có 8 người đang sinh sống gồm: Ồng Nguyễn Nhật M, sinh năm 1947; Bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1951; Anh Nguyễn Nhật D, sinh năm 1976; Anh Nguyễn Nhật Ch, sinh năm 1979; Chị Nguyễn Thị H2, sinh năm 1982; Cháu Phan Ánh D, sinh năm 2011; Cháu Phan Hồng N, sinh năm 2013; Cháu Phan Ngân H, sinh năm 2015. Ngoài những người trên gia đình anh không còn ai ở trên thửa đất. Nay ông T, anh T1 yêu cầu gia đình anh trả phần đất hiện gia đình anh đã xây nhà anh không đồng ý, vì gia đình ông T đã đổi cho anh từ năm 1995 rồi, hiện tại gia đình anh không có chỗ ở nào khác, anh đề nghị gia đình ông T lấy đất cấy lúa là 11 thước ở vùng 3 tuyến 7 của anh và anh Ch. Trên phần đất này hiện có 3 gian nhà cấp 4 xây năm 1995, và 02 gian nhà thờ điện xây năm 1995, công trình phụ, sân, cổng, cây cối.
Đối với đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29 tháng 11 năm 2000 là do bà S mang về cho anh, mục đích của đơn xin chuyển nhượng đất màu là do gia đình bà S, ông T và ông T1 đồng thuận cho anh, chứ không mua bán đổi chác gì. Giấy này anh không biết ai viết, còn chữ ký trong đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 24/11/2000 anh không biết chữ ký của ai anh chỉ biết khi bà S đưa cho anh thì đã có chữ ký của 4 người, còn ký và viết ở đâu anh không biết, khi bà S đưa cho anh tờ giấy này chỉ có mình anh và bà S biết. Nay bà S, ông T, ông T2 và bà S2 không thừa nhận chữ ký và chữ viết là của mình, anh cũng không khẳng định chữ viết và chữ ký trong đơn xin chuyển nhượng có phải là của 4 người này hay không vì anh không chứng kiến viết và ký, anh có yêu cầu được giám định chữ viết và chữ ký của 4 người trong đơn xin chuyển nhượng đất màu nhưng anh không làm đơn, không nộp tiền chi phí giám định. Anh đề nghị bà S là người đưa cho anh thì bà tự đi giám định và tự chịu chi phí giám định còn anh không chịu. Đối với diện tích đất thừa so với tiêu chuẩn của ông T và anh T1 là 106,9m2, theo anh 2 thửa đất này giáp mương nên khi ông T giao đất cho anh đồng thời giao luôn cả phần dôi dư, nên khi cho ông T cũng giao cho anh luôn.
2. Bà Nguyễn Thị S trình bày: Bà là vợ của ông T, gia đình bà đi làm kinh tế ở Sơn La từ năm 1988 nhưng hộ khẩu vẫn ở xã Cát Q, nên gia đình bà được cấp đất nông nghiệp tại xã Cát Q, bà không viết và không ký vào đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29/11/2000, bà cũng không biết ai viết, bà không đưa cho ông M, việc ông M xuất trình cho Tòa án là việc riêng của ông M, gia đình bà không chuyển nhượng, mua bán, tặng cho ông M. Vào năm 2001 gia đình bà có cho ông M mượn thửa đất khu sau Đền để ông M canh tác. Nay anh T1, và ông T yêu cầu gia đình ông M phải trả lại gia đình bà diện tích đất ở khu Sau Đền sau khi trừ đi phần đã thu hồi bà hoàn toàn nhất trí, phần theo tiêu chuẩn của bà, bà đề nghị nhập chung cùng gia đình và cùng với gia đình ông T1 để tiện canh tác. Bà không đưa đơn xin chuyển nhượng đất màu cho anh Dũng, bà có đến nhà anh Toản là cháu của ông T chơi nhưng bà không nói gì về việc tặng cho ông M thửa đất ở Sau Đền.
3. Ông Nguyễn Nhật T2 trình bày: Anh T2 là con trai ông T, bà S, anh T1 là anh trai, Anh T2 không ký vào đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29/11/2000, không được bố mẹ bàn bạc gì về việc cho mượn, đổi hoặc chuyển nhượng cho ông M thửa đất ở Sau Đền. Gia đình anh có 3 nhân khẩu trong thửa đất này cụ thể, vợ chồng anh và con trai là Nguyễn Nhật H, sinh năm 1990, gia đình anh đi Sơn La làm kinh tế từ năm 1988, toàn bộ diện tích đất nông nghiệp của gia đình anh, gia đình không sử dụng mà cho anh em họ hàng làm và đóng thuế, toàn bộ diện tích bị thu hồi anh đồng ý trừ vào tiêu chuẩn ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh nhất trí với đơn khởi kiện của ông T, phần của gia đình anh sau khi trừ đi phần thu hồi còn lại bao nhiêu gia đình anh xin nhận và nhập chung cùng với ông T và anh T1, vì không phải chữ ký của anh nên anh không đề nghị giám định
4. Chị Nguyễn Thị S trình bày: Chị là vợ của anh T1, là con dâu của ông T, bà S, chị không viết và không ký vào đơn xin chuyển nhượng đất màu ngày 29/11/2000, chị không đề nghị giám định chữ ký.
Gia đình chị được cấp 3 khẩu đất nông nghiệp trong đó có 1 thửa ở Sau Đền, năm 2021 khi UBND huyện Hoài Đức thu hồi 1 phần thửa đất ở Sau Đền chị nhất trí phần thu hồi trừ vào tiêu chuẩn của gia đình ông T, còn gia đình chị vẫn giữ nguyên.
Nay ông T và anh T1 khởi kiện yêu cầu gia đình ông M phải trả lại thửa đất ở Sau Đền, trong đó có tiêu chuẩn của chị, chị hoàn toàn nhất trí và đề nghị nhập chung cùng gia đình để tiện canh tác.
5. Bà Nguyễn Thị T2 trình bày: Bà là vợ của ông M, nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp giữa anh T1, ông T với ông M bà không biết, gia đình bà ở trên thửa đất này từ năm 1995, nay anh T1, ông T yêu cầu gia đình bà phải trả thửa đất này bà không đồng ý, bà hoàn toàn nhất trí với lời trình bày của ông M.
Vì điều kiện tuổi cao, sức khỏe yếu bà xin được vắng mặt tất cả các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án.
6. Anh Nguyễn Nhật Ch trình bày: Anh là con trai của ông M và bà T, nguồn gốc thửa đất hiện nay gia đình anh đang sinh sống có nguồn gốc là của ông T và anh T1 đã đổi cho ông M từ năm 1995, gia đình anh có giao phần đất khác cho gia đình anh T1, ông T để canh tác, thửa đất này hiện nay bỏ không.
Nay anh T1, ông T yêu cầu gia đình anh phải trả thửa đất này anh không đồng ý, gia đình anh đổi đất cho anh T1, ông T từ lâu, vì điều kiện công việc anh xin được vắng mặt tất cả các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án.
7. Chị Nguyễn Thị H2 trình bày: Chị là con gái của ông M, bà T, hiện nay mẹ con chị đang ở trên thửa đất tranh chấp, nguồn gốc thửa đất là do ông M bố chị đổi cho anh T1, ông T như thế nào chị không biết, chị không đăng ký kết hôn nên chỉ có chị và 3 con chị ở trên phần đất này. Quá trình sống trên thửa đất này chị có công tôn tạo thửa đất như hiện nay. Nay anh T1, ông T yêu cầu gia đình chị phải trả thửa đất này chị không đồng ý, vì điều kiện công việc chị xin được vắng mặt tất cả các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án.
8. Chị Nguyễn Thị V trình bày: Chị là con gái của ông M bà T, nguồn gốc thửa đất như thế nào chị không biết, gia đình chị ở trên thửa đất này từ năm 1995, năm 2004 chị xây dựng gia đình, quá trình sống trên thửa đất này chị có công tôn tạo thửa đất như hiện nay. Nay anh T1, ông T yêu cầu gia đình chị phải trả thửa đất này chị không đồng ý vì điều kiện công việc chị xin được vắng mặt tất cả các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa xét xử vụ án.
9. UBND xã Cát Q có quan điểm:
Hộ gia đình ông Nguyễn Nhật T được cấp đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP là 1.592m2 và được cấp làm 5 thửa gồm: Thửa số 197/9 tờ bản đồ số 4 diện tích 360m2 tại V2-T6; Thửa số 236/3 tờ bản đồ số 4 diện tích 513m2 tại V3-T7; Thửa số 246/7 tờ bản đồ số 4 diện tích 324m2 tại V4-T7; Thửa số 15/1 tờ bản đồ số 6 diện tích 305m2 tại Sau Đền; Thửa số 325/28 tờ bản đồ số 4 diện tích 90m2 tại Ganh ngoài.
Ngoài 5 thửa đất nông nghiệp được cấp, hộ gia đình ông T không được cấp thửa đất nông nghiệp nào khác.
Năm 2021 hộ gia đình ông T bị Nhà nước thu hồi 152,6m2 đất nông nghiệp khu Sau Đền để thực hiện dự án đường giao thông liên xã Dương L - Cát Q. Như vậy thửa đất Sau Đền của hộ gia đình ông T còn 152,4m2. Tổng diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình ông T được cấp cho 09 nhân khẩu gồm ông Nguyễn Nhật T, sinh năm 1940, bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1939, anh Nguyễn Nhật T2, sinh năm 1970, chị Hồ Thị L, sinh năm 1970; anh Nguyễn Nhật H, sinh năm 1990, anh Nguyễn Nhật Th, sinh năm 1973; chị Đặng Thị Ng, sinh năm 1973, chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1975, anh Nguyễn Nhật S, sinh năm 1980. Ngoài những người trên hộ gia đình ông T không ai được cấp đất nông nghiệp.
Hộ gia đình ông Nguyễn Nhật T1 được cấp đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP được cấp tổng diện tích 529m2 và được cấp 3 thửa gồm; Thửa số 228/5 tờ bản đồ số 4 diện tích 398m2 tại V3-T7; Thửa số 15/2 tờ bản đồ số 6 diện tích 101m2 tại Sau Đền. Thửa số 325/27 tờ bản đồ số 4 diện tích 30m2 tại Ganh Mạ. Ngoài 3 thửa đất nêu trên hộ gia đình ông T1 không được cấp thửa đất nông nghiệp nào khác. Số nhân khẩu của gia đình ông T1 được cấp cho 3 nhân khẩu gồm Nguyễn Nhật T1, sinh năm 1967, vợ ông T1 là Nguyễn Thị S, sinh năm 1968, con trai ông T1 là Nguyễn Nhật C sinh năm 1989, ngoài những nhân khẩu trên hộ gia đình ông T1 không có ai được cấp đất nông nghiệp.
Hộ gia đình ông Nguyễn Nhật M được cấp diện tích đất nông nghiệp gồm 02 thửa là thửa 91/6 tờ bản đồ số 03 diện tích 69m2 và thửa 323/12 tờ bản đồ số 04 diện tích 20m2, tổng 89m2. Ngoài ra UBND xã Cát Q không có thông tin đối với các thửa đất khác của hộ gia đình ông M Gia đình ông T và gia đình ông T1 đi làm kinh tế tại Tiểu khu xx, xã Cò L, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La từ năm 1988 nhưng hộ khẩu vẫn ở xã Cát Q nên hộ gia đình ông T và ông T1 vẫn được nhà nước chia đất nông nghiệp.
Quá trình sử dụng đất thửa đất khu Sau Đền của hộ gia đình ông T, ông T1 hiện tại gia đình ông Nguyễn Nhật M quản lý sử dụng, UBND xã Cát Q không nhận được bất kỳ văn bản nào về việc gia đình ông T1, ông T chuyển nhượng, tặng cho hoặc đổi cho gia đình ông Nguyễn Nhật M.
Ngày 10/3/1994 hộ gia đình ông T và hộ gia đình ông T1 đã được UBND huyện Hoài Đức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời.
Năm 2021 UBND huyện Hoài Đức thu hồi 152,6m2 đất nông nghiệp sau đền của hộ gia đình ông T, khi Nhà nước trả tiền đền bù thì tiền đất thì trả cho hộ gia đình ông T còn công trình cây cối UBND huyện trả cho hộ gia đình ông M. Việc gia đình ông T ông T1 và gia đình ông M đổi đất cho nhau như thế nào UBND xã không biết, các bên không làm văn bản giấy tờ gì, không báo cáo với UBND xã, gia đình ông T, gia đình ông T1, gia đình ông M vẫn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời đối với diện tích đất nông nghiệp của gia đình mình được cấp theo tiêu chuẩn, các gia đình vẫn đóng thuế theo diện tích ghi trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các gia đình, các bên chưa làm thủ tục sang tên cho nhau.
Nay gia đình ông T, ông T1 yêu cầu gia đình ông M trả lại 233,4m2 đất nông nghiệp ở khu Sau Đền trong đó hộ gia đình ông T1 101m2, hộ gia đình ông T 132,4m2 quan điểm của UBND xã đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật.
Qua đo đạc thực tế thì thửa đất Sau Đền của hộ gia đình ông T, ông T1 là 340,3m2 tăng 106,9m2, việc tăng này là do 2 thửa đất này ở cuối và giáp mương máng nên khi sử dụng các hộ gia đình khai hoang để sử dụng, phần diện tích thừa này UBND xã đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật.
Người làm chứng là ông Nguyễn Nhật T3 trình bày: Ông T, ông M là chú của ông, ông chỉ biết bà S là vợ của ông T có đến nhà ông nói việc cho ông M thửa đất ở Sau Đền, bà S chỉ nói miệng chứ không có văn bản giấy tờ gì. Nay ông T, anh T1 khởi kiện yêu cầu ông M phải trả lại thửa đất ở Sau Đền ông đề nghị hai gia đình giữ gìn tình cảm anh em họ hàng nội tộc.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2023/DS - ST, ngày 31/8/2023, Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội đã xét xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Nhật T, ông Nguyễn Nhật T1 về việc đòi tài sản - Buộc ông Nguyễn Nhật M phải tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, trả cho ông Nguyễn Nhật T1, bà Nguyễn Thị S, anh Nguyễn Nhật C thửa đất số 15/2, diện tích 101m2 tại khu Sau Đền và các cây cối trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Nhật T1 (Mỗi người 33,6m2). Có chiều rộng giáp đường liên xã Dương L, Cát Q 7,24m giáp phần đất giao cho ông M 7,97m, chiều dài giáp phần đất ông T 13,36m, giáp hàng xóm 13,21m (có sơ đồ kèm theo ) - Buộc ông Nguyễn Nhật M phải trả tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, trả cho ông Nguyễn Nhật T, bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Nhật S, ông Nguyễn Nhật T2, ông Nguyễn Nhật Th, bà Nguyễn Thị H, bà Đặng Thị L, bà Hồ Thị L và anh Nguyễn Nhật H thửa đất số 15/1, diện tích 132,6m2 tại khu Sau Đền, xã Cát Q, huyện Hoài Đức và các cây cối trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Nhật T ( Mỗi người 14,73m2 ). Có chiều rộng giáp đường liên xã Dương L - Cát Q 9,86m, giáp phần đất giao cho ông M 9,85m, chiều dài giáp phần đất giao cho ông T1 13,36m giáp ngõ đi 13,54m (có sơ đồ kèm theo).
-Tạm giao cho ông Nguyễn Nhật M 106,9m2 đất nông nghiệp tại khu Sau Đền xã Cát Q, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội trên phần đất có lán thờ điện chờ quyết định của cơ quan có thẩm quyền xử lý. Có chiều rộng giáp ngõ đi 5,41 giáp hàng xóm 5,97m chiều dài giáp phần đất chia cho ông T1, ông T là 17,82m, giáp hàng xóm 17,36m (có sơ đồ chi tiết kèm theo).
- Buộc ông Nguyễn Nhật T1, bà Nguyễn Thị S, anh Nguyễn Nhật C phải thanh toán giá trị cây cối và công tồn nền cho ông Nguyễn Nhật M, bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật Ch, anh Nguyễn Nhật D, chị Nguyễn Thị H2 chị Nguyễn Thị V số tiền là 13.382.000đồng (mười ba triệu ba trăm tám hai nghìn đồng).
- Buộc ông Nguyễn Nhật T, bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Nhật S, ông Nguyễn Nhật Th, bà Nguyễn Thị H, bà Đặng Thị L, bà Hồ Thị L ông Nguyễn Nhật T2 và anh Nguyễn Nhật H phải thanh toán giá trị cây cối và công tồn nền cho ông Nguyễn Nhật M, bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật Ch, anh Nguyễn Nhật D, chị Nguyễn Thị H2 chị Nguyễn Thị V số tiền là 17.541.600đ (mười bảy triệu năm trăm bốn mốt nghìn sáu trăm đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và quyền yêu cầu thi hành án của các bên đương sự.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, tại đơn kháng cáo đề ngày 11/9/2023, bị đơn - ông Nguyễn Nhật M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật D, anh Nguyễn Nhật Ch, chị Nguyễn Thị H2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do, thửa đất tranh chấp thuộc quyền quản lý sử dụng của gia đình ông M từ năm 1995. Nguồn gốc thửa đất này gia đình ông Nguyễn Nhật T, bà Nguyễn Thị S không có nhu cầu sử dụng và đã chuyển lên Sơn La làm ăn kinh tế nên năm 1995 đã hoán đổi cho gia đình ông M. Năm 2000 gia đình ông T đã viết Đơn xin chuyển nhượng đất màu có chữ ký của ông T, bà S, Anh T2, chị Sáu và giao cho anh Nguyễn Nhật D bản gốc. Kể từ đó đến nay gia đình ông M sử dụng sinh sống ổn định, xây dựng nhà cấp 4, công trình phụ và nộp thuế sử dụng đất với Nhà nước. Năm 2022 gia đình ông T mới đòi lại. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và bác đơn khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn - anh Nguyễn Nhật T1 giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Đối với nội dung kháng cáo của bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng về phía bị đơn, anh T1 có quan điểm như sau, phía nguyên đơn khẳng định hai thửa đất tranh chấp vẫn thuộc quyền quản lý và sử dụng của gia đình nguyên đơn thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất bằng Giấy chứng nhận. Khi cho gia đình ông M mượn thửa đất để canh tác, gia đình ông M nói với gia đình nguyên đơn khi nào cần thì sẽ trả lại, đến khi đòi lại thì ông M và gia đình ông M không trả. Quá trình giải quyết vụ án UBND xã cũng có quan điểm rõ ràng về quyền quản lý, sử dụng đối với thửa đất này vẫn thuộc về gia đình nguyên đơn.
Đối với văn bản chuyển nhượng đất màu mà phía bị đơn giao nộp cho Tòa án, nguyên đơn khẳng định không biết văn bản này. Ông T và bà S không biết chữ, các thành viên trong gia đình nguyên đơn không có ai ký vào văn bản.
Bị đơn không đưa ra được căn cứ chứng minh việc hoán đổi hay chuyển nhượng đất là hợp pháp. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn và những người liên quan.
Bị đơn - ông Nguyễn Nhật M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Nhật D có mặt tại phiên tòa, ông M và anh Dũng giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo.
Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn phát biểu:
Hai thửa đất 15/1 và 15/2 tờ bản đồ số 6 địa chỉ tại thôn Quế Dương, xã Cát Q, huyện Hoài Đức, Hà Nội, mặc dù đã được UBND huyện Hoài Đức cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T và anh T1 về giao đất Nông nghiệp. Tuy nhiên qua thực tế sử dụng trên cơ sở trình bày của các đương sự trong vụ án thể hiện, phía nguyên đơn không cư trú tại địa phương mà chuyển lên Sơn La sinh sống. Từ năm 1995 hai bên đã có sự hoán đổi quyền sử dụng đất cho nhau (hoán đổi miệng), sau khi hoán đổi bị đơn đã sử dụng đất ổn định, xây nhà và các công trình trên đất. Năm 2000, gia đình ông T đã viết Đơn chuyển nhượng đất màu có chữ ký của ông T, bà S, Anh T2, chị Sáu và giao cho anh Nguyễn Nhật D là con trai của ông M văn bản này. Mặc dù phía nguyên đơn không thừa nhận, kết luận giám định không đủ cơ sở xác định chữ ký của những người đã ký vào văn bản, nhưng lời khai của phía bị đơn phù hợp với chứng cứ khách quan, phù hợp với thực tế bị đơn đã sử dụng đất công khai từ nhiều năm nay mà không bị cản trở. Nguyên đơn từ bỏ quyền sử dụng đất và đã chuyển giao quyền sử dụng cho bị đơn. Căn cứ Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành; căn cứ quy định tại Điều 221 Bộ luật dân sự thì đủ điều kiện xác lập quyền sở hữu cho bị đơn do thỏa thuận hoán đổi của các bên đã được thể hiện rõ. Nếu đất Nông nghiệp không sử dụng thì cũng bị thu hồi, do nguyên đơn không canh tác sử dụng đất nông nghiệp và đã chuyển đi nơi khác sinh sống. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Án Lệ số 15, công nhận việc hoán đổi quyền sử dụng đất cho bị đơn.
Ngoài ra quá trình xem xét thẩm định xác định trên đất có ngôi nhà cấp 4 của bị đơn xây dựng để ở, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy bản án dân sự sơ thẩm do vi phạm tố tụng, trường hợp không hủy bản án thì sửa theo hướng công nhận quyền quản lý, sử dụng đối với thửa đất các bên đã hoán đổi cho nhau.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá tài liệu chứng cứ và nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu và đề nghị:
Việc chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho quyền sử dụng đất phải được thực hiện đúng theo quy định của Luật đất đai và BLDS. Diện tích đất tranh chấp được cấp cho 2 hộ gia đình ông T, anh T1 gồm 12 người. “Đơn xin chuyển nhượng đất màu” đề ngày 29/11/2000 chỉ có chữ ký của 4 người là ông T, bà S, Anh T2, chị Sáu; không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không được khai báo với chính quyền địa phương để ghi chú vào sổ sách địa chính. Mặt khác nếu đúng là chữ ký, chữ viết của ông T, bà S, Anh T2, chị Sáu thì giấy này cũng không hợp pháp vì diện tích đất tranh chấp được cấp cho 2 hộ gia đình ông T, anh T1 gồm 12 người, nên nếu chỉ có 4 người ký vào văn bản này là không hợp pháp. Ngoài ra, năm 2021 khi Nhà nước thu hồi 1 phần đất tranh chấp thì gia đình ông T nhận tiền bồi thường đất, gia đình ông M nhận tiền bồi thường công trình trên đất. Như vậy quyền sử dụng đất vẫn thuộc gia đình ông T và gia đình anh T1. Ông M và gia đình ông M không có chứng cứ chứng minh quyền sử dụng đất tranh chấp đã được chuyển giao hợp pháp cho gia đình ông. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông M và những người sinh sống trên đất phải trả lại cho gia đình nguyên đơn phần đất được Nhà nước cấp theo NĐ 64/CP là có căn cứ. Kháng cáo của ông M và anh Dũng không có căn cứ để chấp nhận.
Đối với việc bị đơn đề nghị áp dụng Án lệ số 15/2017 để chấp nhận việc đổi đất giữa 2 bên. Tuy nhiên, diện tích đất tranh chấp đã được UBND huyện Hoài Đức cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (tạm thời) từ năm 1994 cho gia đình ông T và
gia đình anh T1. UBND xã Cát Q không nhận được bất kỳ văn bản nào về việc gia đình anh T1 và ông T chuyển nhượng, tặng cho hoặc đổi cho gia đình ông Nguyễn Nhật M. Như vậy bị đơn không chứng minh được việc “hai bên đã đăng ký, kê khai, được ghi nhận tại Sổ địa chính đối với diện tích đất đổi và trực tiếp canh tác” như tình huống của Án lệ. Do đó tranh chấp này không thuộc phạm vi để áp dụng Án lệ.
Từ những phân tích trên thấy không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông M và anh Dũng.
Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà T, anh Ch, chị Hường đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà T, anh Ch và chị Hường.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm như phân tích nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng:
Bị đơn - ông Nguyễn Nhật M và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật D, anh Nguyễn Nhật Ch, chị Nguyễn Thị H2 có đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định kháng cáo hợp lệ về hình thức.
Tại phiên tòa mở lần thứ hai, bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật Ch, chị Nguyễn Thị H2 mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định bà T, anh Ch và chị Hường đã từ bỏ quyền kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà T, anh Ch và chị Hường.
Đối với sự vắng mặt của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác không có đơn kháng cáo, Toà án đã tống đạt và triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử nên căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.
2. Về nội dung:
2.1. Xét yêu cầu khởi kiện đòi quyền sử dụng đất của nguyên đơn Căn cứ vào trình bày của các đương sự kèm theo tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và Tòa án thu thập được thể hiện:
Hộ Gia đình anh Nguyễn Nhật T1 được Nhà nước cấp đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP, ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính Phủ. Tổng diện tích đất nông nghiệp được giao là 529m2 và được cấp làm 03 thửa đều có địa chỉ tại thôn Quế Dương, xã Cát Q, huyện Hoài Đức, Hà Nội gồm:
- Thửa số 228/5 tờ bản đồ số 4 diện tích 398m2 tại V3-T7;
- Thửa số 15/2 tờ bản đồ số 6 diện tích 101m2 tại Sau Đền;
- Thửa số 325/27 tờ bản đồ số 4 diện tích 30m2 tại Ganh Mạ;
Hộ gia đình ông Nguyễn Nhật T được giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64-CP, ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính Phủ là 1.592m2 và được cấp làm 5 thửa đều có địa chỉ tại thôn Quế Dương, xã Cát Q, huyện Hoài Đức, Hà Nội gồm:
- Thửa số 197/9 tờ bản đồ số 4 diện tích 360m2 tại V2-T6 - Thửa số 236/3 tờ bản đồ số 4 diện tích 513m2 tại V3-T7 - Thửa số 246/7 tờ bản đồ số 4 diện tích 324m2 tại V4-T7 - Thửa số 15/1 tờ bản đồ số 6 diện tích 305m2 tại Sau Đền - Thửa số 325/28 tờ bản đồ số 4 diện tích 90m2 tại Ganh ngoài.
Ngoài 5 thửa đất nông nghiệp được cấp, hộ gia đình ông T không được cấp thửa đất nông nghiệp nào khác.
Hộ gia đình ông Nguyễn Nhật M được cấp diện tích đất nông nghiệp gồm 02 thửa là thửa 91/6 tờ bản đồ số 03, diện tích 69m2 và thửa 323/12 tờ bản đồ số 04 diện tích 20m2. Tổng diện tích được cấp là 89m2 đều có địa chỉ tại thôn Quế Dương, xã Cát Q, huyện Hoài Đức, Hà Nội.
Năm 2021 hộ gia đình ông T bị Nhà nước thu hồi 152,6m2 đất nông nghiệp khu Sau Đền để thực hiện dự án đường giao thông liên xã Dương L - Cát Q. Như vậy thửa đất Sau Đền của hộ gia đình ông T còn lại là 152,4m2.
Sau khi được Nhà nước giao đất tạm thời, gia đình ông T1, ông T đã đi làm ăn tại Sơn La nên không trực tiếp canh tác mà cho anh, em họ hàng mượn để canh tác. Theo anh T1, năm 2001 gia đình anh T1 và gia đình ông T cho gia đình ông M mượn đất để canh tác. Ông M cho rằng gia đình anh T1 và gia đình ông T đã đổi đất cho gia đình ông từ năm 1995, đến năm 2000 bà S là vợ của ông T và là mẹ của anh T1 đã đưa văn bản là Đơn xin chuyển nhượng đất màu lập ngày 29/11/2000 cho anh Dũng con trai ông T, nội dung thể hiện cho anh Dũng 406m2 đất màu tại khu Sau Đền. Trong đơn có chữ ký của ông T, bà S, Anh T2 và chị Sáu. Quá trình giải quyết vụ án ông T, bà S, Anh T2 và chị Sáu không thừa nhận đã ký vào văn bản này, bà S, ông T còn khẳng định không biết chữ nên các ông bà không ký vào Đơn xin chuyển nhượng đất màu do anh Dũng xuất trình cho Tòa án. Bà S không thừa nhận bà đưa cho anh Dũng đơn xin chuyển nhượng đất màu. Quá trình giải quyết vụ án ông M và anh Dũng đều cho rằng gia đình ông đổi đất cho gia đình ông T, anh T1 và đã trả 11 thước ở vùng 3 tuyến 7 nhưng gia đình ông T và gia đình anh T1 không sử dụng mà nhờ gia đình ông trông nom hộ.
Qua xác minh tại UBND xã Cát Q thể hiện, hộ gia đình ông M không có thửa đất ở vùng 3 tuyến 7 diện tích 11 thước. Năm 2021 khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để làm đường liên xã Dương L, Cát Q, gia đình ông M chỉ nhận đền bù tiền cây cối, còn tiền đất gia đình ông T nhận. Ngoài lời khai anh Dũng và ông M không có tài liệu nào chứng minh việc gia đình ông T, gia đình ông T1 đổi cho gia đình ông thửa đất này, gia đình ông M cũng không có thửa đất ở vùng 3 tuyến 7 diện tích 11 thước như ông M và anh Dũng trình bày.
Như vậy yêu cầu khởi kiện của anh T1 và ông T về việc buộc gia đình ông M phải trả cho gia đình ông T1 101m2 đất màu tại thửa đất số 15/2, tờ bản đồ số 6 khu Sau Đền, và trả cho gia đình ông T diện tích đất tại thửa đất số 15/1, tờ bản đồ số 6 khu Sau Đền, diện tích đất sau khi bị trừ đi phần diện tích bị thu hồi còn lại là 132,4m2 được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là có căn cứ và đúng pháp luật.
2.2 Đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn phải trả phần diện tích đất dôi dư là 106,9m2 ngoài phần diện tích được cấp trong Giấy chứng nhận.
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ gia đình anh T1 và ông T thì thửa đất Sau Đền của hộ anh T1 có diện tích 101m2, thửa đất của hộ gia đình ông T có diện tích 305m2, tổng diện tích là 406m2. Năm 2021 Nhà nước lấy 1 phần đất nông nghiệp của hộ gia đình ông T là 152,4m2, diện tích đất nông nghiệp của hộ gia đình ông T chỉ còn lại là 152,6m2, trong đó 20m2 ở phía bên kia đường, còn lại 132,4m2. Tổng diện tích đất của gia đình anh T1 và ông T hiện gia đình ông M đang quản lý là 233,4m2, qua đo đạc thực tế là 340,3m2. Anh T1 cho rằng thửa đất của gia đình anh và gia đình ông T được chia ở phía cuối và giáp mương nên phần đất dôi dư được giao luôn, tuy nhiên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông T và anh T1 không thể hiện có phần diện tích đất này, không có căn cứ xác định khi giao đất thì anh T1 và ông T được giao cả phần diện tích đất dôi dư này nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của anh T1 và ông T đối với việc đòi quyền sử dụng đối với phần diện tích đất 106,9m2 ngoài phần diện tích được cấp trong Giấy chứng nhận.
Quá trình giải quyết vụ án UBND xã Cát Q đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét thẩm định thấy gia đình ông M đã cải tạo và sử dụng ổn định, trên đất có lán thờ điện nên tạm giao phần diện tích đất dôi dư 106,9m2 đất tại khu Sau Đền cho gia đình ông M quản lý, sử dụng và phải chấp hành các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là có căn cứ.
2.3. Đối với yêu cầu của nguyên đơn buộc gia đình ông M phải dỡ bỏ công trình, cây cối trên trên diện tích đất tranh chấp.
Quá trình sử dụng đất gia đình ông M đã trồng cây, làm sân, tôn nền, xây nhà, làm lán tạm, nhà thờ điện, cổng và tôn tạo cao như hiện nay. Việc gia đình ông M xây dựng công trình trên diện tích đất nông nghiệp là vi phạm quy định về quản lý đất đai, sử dụng đất không đúng mục đích nên gia đình ông M phải tự dỡ bỏ nhà, lán tạm và các công trình trên phần diện tích đất này. Đối với công tôn nền và các cây cối có giá trị trồng trên đất khi tuyên trả gia đình ông T và anh T1 thì gia đình ông T và anh T1 phải thanh toán giá trị bằng tiền cho gia đình ông M là có căn cứ, cụ thể theo Biên bản định giá thì trên thửa đất của gia đình anh T1 và ông T, gia đình ông M đã trồng cây cối, tôn nền có giá trị như sau:
03 cây bưởi cao 4m, đường kính 15cm có giá trị 1.290.000đồng.
02 cây bưởi cao 3m, đường kính 10cm có giá trị 478.000đồng.
01 cây bưởi cao 3m, đường kính 05cm có giá trị 167.600đồng.
02 cây bưởi cao 3,5m, đường kính 05cm có giá trị 400.000đồng.
04 cây cau cao 6m, đường kính 15cm có giá trị 1.764.000đồng.
07 cây cau cao 4m, đường kính 05cm có giá trị 2.205.000đồng. Roi 1 cây có giá trị 210.000đồng. Duối 02 có giá trị 200.000đồng. Mộc 02 cây có giá trị 52.600đồng. Công tôn nền 69.000đ/m3 x 233,4m2 x1,5m 2 4 .157.000 đồn g . Tổng cộng là 30.923.600đ Trong đó gia đình anh T1 phải thanh toán số tiền là 13.382.000đồng, gia đình ông T phải thanh toán cho gia đình ông M số tiền là 17.541.600đồng.
2.4. Xem xét tính hợp pháp của Đơn xin chuyển nhượng đất màu ghi ngày 29/11/2000 do ông M và anh Dũng xuất trình tại Tòa án.
Quá trình giải quyết vụ án, ông M và anh Dũng xuất trình “Đơn xin chuyển nhượng đất màu” đề ngày 29/11/2000 cho Tòa án, trong đơn có chữ ký của ông T, bà S, Anh T2 và chị Sáu. Phía ông T, bà S, Anh T2 và chị Sáu không thừa nhận chữ ký và chữ viết của mình. Ông T và bà S cho rằng bản thân không biết chữ nên không thể ký và viết vào “Đơn xin chuyển nhượng đất màu”.
Tại cấp phúc thẩm, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về phía bị đơn đề nghị được giám định chữ ký của những người ký trong đơn. Tòa án cấp phúc thẩm đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với văn bản này. Tại Kết luận giám định số 111/KL-KTHS ngày 20/5/2023, Viện Khoa học xét xử Bộ Công an đã kết luận, không đủ cơ sở kết luận các chữ viết, chữ ký Nguyễn Thị S, Tuấn, Nguyễn Nhật T2 có phải là cùng một người viết ra hay không; chữ viết Nguyễn Thị S không phải là cùng một người viết ra. Đối với chữ ký, chữ viết của ông Nguyễn Nhật T, trong hồ sơ chỉ có dấu vân tay mà không có chữ ký của ông T, các đương sự không cung cấp được chữ ký của ông T làm mẫu so sánh nên không có mẫu để gửi giám định.
Xét thấy, diện tích đất tranh chấp được cấp cho 2 hộ gia đình ông T, anh T1 gồm 12 người. “Đơn xin chuyển nhượng đất màu” đề ngày 29/11/2000 chỉ có chữ ký của 4 người là ông T, bà S, Anh T2, chị Sáu, không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, không được khai báo với chính quyền địa phương để ghi chú vào sổ sách địa chính. Trường hợp có căn cứ xác định đúng chữ ký, chữ viết của ông T, bà S, Anh T2, chị Sáu thì “Đơn xin chuyển nhượng đất màu” đề ngày 29/11/2000 cũng không hợp pháp, giao dịch này trái quy định của pháp luật.
2.5. Đối với việc thỏa thuận vị trí quyền sử dụng đất nông nghiệp tại khu Sau Đền giữa gia đình ông T và gia đình anh T1, kèm theo Biên bản gửi Tòa án cấp sơ thẩm và đề nghị Tòa án công nhận. Xét thấy nội dung này không liên quan đến việc giải quyết tranh chấp giữa ông T, anh T1 với ông M và không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên không xem xét.
Từ những phân tích trên xác định, kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Nhật D là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
Phát biểu của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
3. Về án phí: Nguyên đơn - ông Nguyễn Nhật T và anh Nguyễn Nhật T1 được chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện nên không phải chịu án phí đối với phần yêu cầu khởi kiện được chấp nhận.
Đối với yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn - ông Nguyễn Nhật M phải trả phần diện tích đất dôi dư 106,9m2, phần diện tích đất này không thuộc quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của bị đơn nên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không phù hợp nên không được chấp nhận. Yêu cầu này không phải là tranh chấp tài sản có giá ngạch nên nguyên đơn phải chịu án phí không có giá ngách đối với phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận. Ông T là người cao tuổi nên được miễn án phí.
Tòa án cấp sơ thẩm buộc bà Nguyễn Thị S, anh Nguyễn Nhật C, bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Nhật S, ông Nguyễn Nhật Th, ông Nguyễn Nhật T2, bà Nguyễn Thị H, bà Đặng Thị L, bà Hồ Thị L và anh Nguyễn Nhật H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí là không đúng quy định vì những người này không có yêu cầu độc lập (đồng quan điểm với nguyên đơn).
Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn - ông Nguyễn Nhật M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, tuy nhiên do ông M là người cao tuổi nên ông M thuộc trường hợp được miễn án phí. Hoàn trả lại ông M tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Đức.
Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên anh Nguyễn Nhật D phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Do đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà T, anh Ch và chị Hường nên bà T, anh Ch và chị Hường phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Do bà T là người cao tuổi nên thuộc trường hợp được miễn án phí. Hoàn trả lại bà T tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Đức.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 312 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào các Điều 118, 237, 238, 263, 264 Bộ luật Dân sự năm 1995. Căn cứ Điều 26; Điều 35; Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Điểm đ Khoản 1 Điều 12; điểm a, khoản 2 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2023/DS - ST, ngày 31/8/2023, Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật Ch và chị Nguyễn Thị H2.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Nhật T, ông Nguyễn Nhật T1 về việc đòi tài sản
2. Buộc ông Nguyễn Nhật M phải tháo dỡ công trình xây dựng trên đất để trả lại cho ông Nguyễn Nhật T1, bà Nguyễn Thị S, anh Nguyễn Nhật C thửa đất số 15/2, diện tích 101m2 tại khu Sau Đền và các cây cối trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Nhật T1 (mỗi người 33,6m2). Thửa đất có chiều rộng giáp đường liên xã Dương L, Cát Q 7,24m, giáp phần đất giao cho ông M 7,97m, chiều dài giáp phần đất ông T 13,36m, giáp hàng xóm 13,21m (có sơ đồ kèm theo).
3. Buộc ông Nguyễn Nhật M phải tháo dỡ công trình xây dựng trên đất trả cho ông Nguyễn Nhật T, bà Nguyễn Thị S, anh Nguyễn Nhật S, anh Nguyễn Nhật T2, anh Nguyễn Nhật Th, chị Nguyễn Thị H, chị Đặng Thị L, chị Hồ Thị L và anh Nguyễn Nhật H thửa đất số 15/1, diện tích 132,4m2 tại khu Sau Đền, xã Cát Q, huyện Hoài Đức và các cây cối trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Nguyễn Nhật T (mỗi người 14,73m2). Thửa đất có chiều rộng giáp đường liên xã Dương L - Cát Q 9,86m, giáp phần đất giao cho ông M 9,85m, chiều dài giáp phần đất giao cho ông T1 13,36m, giáp ngõ đi 13,54m (có sơ đồ kèm theo ).
Trường hợp ông Nguyễn Nhật M không tự tháo dỡ công trình xây dựng trên đất thì ông T, anh T1 và các thành viên trong hộ gia đình ông T và anh T1 được quyền tháo dỡ mà không phải thanh toán giá trị công trình cho ông M và gia đình ông M.
4. Tạm giao cho ông Nguyễn Nhật M 106,9m2 đất nông nghiệp tại khu Sau Đền xã Cát Q, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội quản lý, sử dụng, trên phần đất có lán thờ điện và phải chấp hành các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vể xử lý đất đai. Phần diện tích đất này có chiều rộng giáp ngõ đi 5,41m, giáp hàng xóm 5,97m chiều dài giáp phần đất chia cho ông T1, ông T là 17,82m, giáp hàng xóm 17,36m (có sơ đồ kèm theo).
5. Buộc ông Nguyễn Nhật T1, bà Nguyễn Thị S, anh Nguyễn Nhật C phải thanh toán giá trị cây cối và công tôn nền cho ông Nguyễn Nhật M, bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật Ch, anh Nguyễn Nhật D, chị Nguyễn Thị H2, chị Nguyễn Thị V (hộ gia đình ông M) số tiền là 13.382.000đồng (mười ba triệu ba trăm tám hai nghìn đồng).
6. Buộc ông Nguyễn Nhật T, bà Nguyễn Thị S, anh Nguyễn Nhật S, anh Nguyễn Nhật Th, chị Nguyễn Thị H, chị Đặng Thị L, chị Hồ Thị L, anh Nguyễn Nhật T2 và anh Nguyễn Nhật H phải thanh toán giá trị cây cối và công tôn nền cho ông Nguyễn Nhật M, bà Nguyễn Thị T2, anh Nguyễn Nhật Ch, anh Nguyễn Nhật D, chị Nguyễn Thị H2 và chị Nguyễn Thị V số tiền án phí 17.541.600 đồng (mười bảy triệu năm trăm bốn mốt nghìn sáu trăm đồng).
7. Về án phí:
- Ông Nguyễn Nhật T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
- Anh Nguyễn Nhật T1 phải chịu 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí anh T1 đã nộp theo Biên lai số 0016577 ngày 22/6/2023 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Đức. Xác nhận anh T1 đã nộp xong tiền án phí.
- Ông Nguyễn Nhật M và bà Nguyễn Thị T2 không phải chịu án phí. Trả lại ông M, bà T mỗi người 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0016732 ngày 20/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Đức.
- Anh Nguyễn Nhật D, anh Nguyễn Nhật Ch và chị Nguyễn Thị H2 mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng mỗi người đã nộp theo Biên lai số 0016732 ngày 20/9/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Đức.
8. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi trên số tiền phải thi hành án chưa thi hành cho đến khi thi hành xong toàn bộ các khoản phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
9. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai phúc thẩm, có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp đòi tài sản là quyền sử dụng đất số 368/2024/DS-PT
Số hiệu: | 368/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/05/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về