Bản án về tranh chấp đòi tài sản là nhà và đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 125/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 125/2024/DS-PT NGÀY 30/05/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN LÀ NHÀ VÀ ĐẤT, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 30 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 55/2024/TLST-DS ngày 22 tháng 02 năm 2024 về “Tranh chấp đòi tài sản là nhà và đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 240/2023/DS-ST ngày 18/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 70/2024/QĐ-PT ngày 22/02/2024 và Quyết định hoãn phiên toà dân sự phúc thẩm số 159/2024/QĐPT ngày 15/5/2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Ông Lê Phước Hoàn H, sinh năm 1966, vắng mặt;

Nơi cư trú: Số G, đường H, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Phước Hoàn H: Bà Lữ Thị Thanh X, sinh năm 1967, (theo Giấy ủy quyền ngày 21/3/2022), có mặt;

Nơi cư trú: Số G, đường H, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang;

Chỗ ở hiện nay: Số A, rạch B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang.

1.2. Bà Lữ Thị Thanh X, sinh năm 1967, có mặt.

Nơi cư trú: Số G, đường H, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang;

Chỗ ở hiện nay: Số A, rạch B, phường Đ, thành phố L, tỉnh An Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Lữ Thị Thanh X: Ông Hồ Văn T, sinh năm 1960, là người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy ủy quyền ngày 01/11/2021), có mặt.

Nơi cư trú: Số A, đường T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang;

Chỗ ở hiện nay: Số C N, phường V, thành phố R, tỉnh Kiên Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Lữ Thị Thanh X:

Luật sư Huỳnh Hữu N, Công ty L2, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đ, vắng mặt.

Địa chỉ liên hệ: Số E Đ, phường H, TP., tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Lê Bửu H1, sinh năm 1946, vắng mặt;

Nơi cư trú: Số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

2.2 Bà Phạm Kim L (Phan Kim L1), sinh năm 1956, vắng mặt.

Nơi cư trú: số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

Người đại diện hợp pháp của ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L (Phan Kim L1): Ông Lê Tấn H2, sinh năm 1985; nơi cư trú: số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; là người đại diện ủy quyền (theo giấy ủy quyền ngày 13/3/2024), có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L (Phan Kim L1): Bà Hồ Hoàng P - Luật sư của Văn phòng L3, thuộc Đoàn luật sư tỉnh A;

Địa chỉ văn phòng: Số A, T, tổ A, khóm B, phường M, TP L, An Giang, có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ủy ban nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang;

Địa chỉ trụ sở: Số I, đường N nối dài, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang, vắng mặt.

3.2. Bà Lê Thị Kim H3, sinh năm 1978, có mặt;

Nơi cư trú: Số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

3.3. Bà Lê Thị Kim H4, sinh năm 1987, có đơn vắng mặt;

Nơi cư trú: Số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

3.4. Ông Lê Tấn H2 (Lê Tấn H5), sinh năm 1985, có mặt;

Nơi cư trú: Số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

3.5. Bà Nguyễn Thị Ngọc N1, sinh năm 1988, có đơn vắng mặt;

Nơi cư trú: Số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

3.6. Cháu Lê Ngọc An H6, sinh năm 2018;

Nơi cư trú: Số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

3.7. Cháu Lê Minh H7, sinh năm 2021;

Nơi cư trú: Số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang.

Người đại diện hợp pháp của cháu H6, cháu H7: Ông Lê Tấn H2, sinh năm 1985 và bà Nguyễn Thị Ngọc N1, sinh năm 1988; cùng cư trú: số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang; là cha, mẹ ruột của các cháu H6, H7; là người đại diện theo pháp luật; ông H2 có mặt, bà N1 vắng mặt.

4. Kháng cáo: Bà Lữ Thị Thanh X là nguyên đơn trong vụ án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo hồ sơ cấp sơ thẩm thể hiện:

- Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng, nguồn gốc đất là của cụ Lê Văn N2, cụ Tôn Thị T1 (ông bà nội ông Lê Phước Hoàn H) để lại cho ông Lê Phước A, bà Nguyễn Thị S (cha mẹ ông H). Sau khi ông A chết, bà S tiếp tục quản lý sử dụng đất cho đến năm 1985. Do điều kiện đi lại khó khăn nên cho gia đình ông Lê Bửu H1 (họ hàng với ông H) ở trên đất và quản lý phủ thờ gia tộc. Đến năm 2006 thì biết việc ông H1, bà L1 đã đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông H, bà X yêu cầu ông H1 phải hoàn trả lại nhà đất; ông H1, bà L1 đồng ý và các bên ký kết hợp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29 tháng 11 năm 2006, nhưng vẫn cho gia đình ông H1 tiếp tục cư trú. Nội dung ông H1, bà L1 tặng cho ông H, bà X quyền sử dụng đất diện tích 1.393,3m2, gồm: 312m2 đất ao theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00938aA do Ủy ban nhân dân (sau đây được viết tắt là UBND) thành phố L cấp ngày 27/9/2005 mang tên ông H1, bà L1; quyền sử dụng đất diện tích 1.081,3m2, gồm: 200m2 đất ở và 881,3m[2 ]đất CLN theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00939aA do UBND thành phố L cấp ngày 27/9/2005 mang tên ông H1, bà L1. Hợp đồng được UBND phường B xác nhận ngày 05 tháng 12 năm 2006. Từ hợp đồng này ông H, bà X xin chỉnh lý trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Phòng Tài nguyên và Môi trường xác nhận vào ngày 26/12/2006 từ tên chủ sử dụng ông H1, bà L1 sang tên ông H, bà X.

Do ông H, bà X đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nên ông H, bà X yêu cầu ông H1, bà L1 và những người đang cư trú trên nhà đất có trách nhiệm di dời tài sản ra khỏi nhà, giao trả nhà và đất cho ông H, bà X.

Đồng thời, ông H, bà X không đồng ý với yêu cầu phản tố của ông H1, bà L1 do đất này là của ông, bà; việc chuyển nhượng đất bằng hợp đồng tặng cho là hợp pháp và không trái ý chí các bên đã thoả thuận; căn cứ vào các biên bản hoà giải tại địa phương thì ông H1, bà L1 đồng ý trả lại nhà đất bằng hình thức ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất.

Hiện nay, ông H vẫn đang quản lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên và không cầm cố, thế chấp cho bất kỳ cá nhân hay tổ chức tín dụng nào.

- Theo lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn, người đại diện hợp pháp của bị đơn cho rằng: Nguồn gốc nhà đất tranh chấp là của cụ Lê Văn T2 (ông cố ông H và ông H1) để lại làm phủ thờ chung. Vào năm 1988 thì họ tộc họp mặt thống nhất bàn giao nhà phủ thờ lại cho gia đình ông H1 quản lý từ đó cho đến nay. Đến năm 2005, thì ông H1, bà L1 kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất thì được UBND thành phố L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00938aA ngày 27/9/2005 và số H00939aA ngày 27/9/2005 mang tên ông H1, bà L1. Do hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H1, bà L1 với ông H, bà X được ký kết nhưng trái với ý chí ông H1, bà L1 nên ông H1, bà L1 không đồng ý theo yêu cầu của ông H, bà X. Đồng thời, ông H1, bà L1 có yêu cầu phản tố: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29 tháng 11 năm 2006 giữa ông H1, bà L1 với ông H, bà X vô hiệu; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chỉnh lý biến động sang tên cho ông H, bà X.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các ông (bà) Lê Tấn H5 (tên gọi khác Lê Tấn H2), Lê Thị Kim H3, Lê Thị Kim H4, cháu Lê Ngọc An H6, cháu Lê Minh H7 do ông Lê Tấn H2 đại diện theo pháp luật trình bày: Các ông, bà hiện đang sinh sống trong căn nhà trên diện tích đất 1.393,3m2 bao gồm đất thổ cư, cây lâu năm và đất ao và có đăng ký hộ khẩu nơi thường trú theo địa chỉ số G, tổ A, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang. Các ông, bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, bà X vì ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các ông bà; vì ngoài chỗ ở này thì ông bà không có chỗ ở nào khác. Đề nghị chấp nhận yêu cầu phản tố của ông H1, bà L1 hủy hợp đồng chuyển nhượng; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thành phố L trình bày: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H1, bà L1 và ông H, bà X đảm bảo theo quy định tại Điều 127 Luật đất đai năm 2003.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Ngọc N3, vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm 240/2023/DS-ST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, Quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X về việc yêu cầu ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L và những người đang sinh sống trong căn nhà di dời ra khỏi nhà để giao trả đất và nhà cho ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X quản lý, sử dụng.

2. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Lê Bửu H1 và bà Phạm Kim L về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00938aA ngày 27/9/2005 và số H00939aA ngày 27/9/2005 đã được Phòng 3 chỉnh lý trang 4 xác nhận chủ sử dụng từ ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L sang ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X vào ngày 26/12/2006.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Lê Bửu H1 và bà Phạm Kim L.

Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng (có nội dung tặng cho) quyền sử dụng đất ngày 29 tháng 11 năm 2006, giữa bên chuyển nhượng ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L, bên nhận chuyển nhượng ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X là vô hiệu.

Ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L liên hệ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

(Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 13/6/2018 do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L4 lập là một phần không thể tách rời của bản án).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, về án phí dân sự sơ thẩm và về quyền kháng cáo.

Ngày 25 tháng 09 năm 2023, nguyên đơn bà Lữ Thị Thanh X Kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 240/2023/DS-ST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L di dời đi nơi khác, giao trả đất và nhà cho ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X quản lý, sử dụng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Nguyên đơn, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; yêu cầu kháng cáo. Yêu cầu Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo, sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 240/2023/DSST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Buộc ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L di dời đi nơi khác, giao trả đất và nhà cho ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X quản lý, sử dụng.

- Người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày: Yêu cầu Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông H, bà X, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 240/2023/DS-ST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Luật sư Hồ Hoàng P có ý kiến phát biểu bảo vệ quyền lợi ích cho bị đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà X, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 240/2023/DS-ST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng: Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, phúc xử: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà X. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 240/2023/DS-ST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét nguồn gốc đất, do tại phiên toà các đương sự đều thống nhất nguồn gốc đất của cụ Lê Văn T2 (ông cố ông H và ông H1) để lại làm phủ thờ chung, chưa có văn bản phân chia cho ai.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Lữ Thị Thanh X nộp đơn kháng cáo trong hạn luật định, theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo và tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

[1.2]. Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho các đương sự: Ủy ban nhân dân thành phố L, bà Nguyễn Thị Ngọc N1, bà Lê Thị Kim H4 có yêu cầu xét xử vắng mặt, đối với Luật sư Trần Hoàng V có văn bản từ chối tham gia tố tụng, Luật sư Huỳnh Hữu N xin hoãn phiên toà với lý do tham gia phiên toà xét xử vụ án khác là không có cơ sở chấp nhận, coi như từ bỏ việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà X. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2]. Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị S (là mẹ ruột của ông Lê Phước Hoàn H) đang định cư tại Hoa Kỳ có cung cấp văn bản trình bày ý kiến về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất tranh chấp. Tuy nhiên, ý kiến trình bày của bà S ngoài phạm vi khởi kiện của người khởi kiện và không thuộc phạm vi xem xét, giải quyết trong cùng vụ án. Toà án cấp sơ thẩm không đưa bà S vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ trong vụ án là có cơ sở theo quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3]. Về nội dung:

Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên toà phúc thẩm hôm nay:

- Nguyên đơn, bị đơn và người liên quan đều thống nhất nguồn gốc nhà đất tranh chấp là của cụ Lê Văn T2 (ông cố ông H và ông H1) để lại làm phủ thờ chung.

Tuy nhiên, phía nguyên đơn cho rằng cụ T2 để lại cho cụ Lê Văn N2, cụ Tôn Thị T1 (ông bà nội ông Lê Phước Hoàn H) để lại cho ông Lê Phước A, bà Nguyễn Thị S (cha mẹ ông H). Sau khi ông A chết, bà S quản lý sử dụng đất cho đến năm 1985. Do điều kiện đi lại khó khăn nên cho gia đình ông Lê Bửu H1 (họ hàng với ông H) ở trên đất và quản lý phủ thờ gia tộc. Đến năm 2006 thì biết việc ông H1, bà L đã đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông H, bà X yêu cầu ông H1 phải hoàn trả lại nhà đất; ông H1, bà L đồng ý và các bên ký kết hợp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29 tháng 11 năm 2006, nhưng vẫn cho gia đình ông H1 tiếp tục cư trú. Do ông H, bà X đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nên ông H, bà X yêu cầu ông H1, bà L và những người đang cư trú trên nhà đất có trách nhiệm di dời tài sản ra khỏi nhà, giao trả nhà và đất cho ông H, bà X.

- Phía bị đơn cho rằng vào năm 1988 thì họ tộc họp mặt thống nhất bàn giao nhà phủ thờ lại cho gia đình ông H1 quản lý từ đó cho đến nay. Đến năm 2005, thì ông H1, bà L kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất thì được UBND thành phố L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00938aA ngày 27/9/2005 và số H00939aA ngày 27/9/2005 mang tên ông H1, bà L. Do hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H1, bà L với ông H, bà X được ký kết nhưng trái với ý chí ông H1, bà L nên ông H1, bà L không đồng ý theo yêu cầu của ông H, bà X. Đồng thời, ông H1, bà L có yêu cầu phản tố: Yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 29 tháng 11 năm 2006 giữa ông H1, bà L với ông H, bà X vô hiệu; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chỉnh lý biến động sang tên cho ông H, bà X.

[4]. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét kháng cáo của bà Lữ Thị Thanh X. Xét, nguồn gốc nhà và đất tranh chấp, các bên đương sự đều thống nhất là của cụ Lê Văn T2 (ông cố ông H và ông H1) để lại làm phủ thờ chung. Vào năm 1988 thì họ tộc họp mặt thống nhất bàn giao nhà phủ thờ và đất lại cho gia đình ông H1 quản lý, sử dụng từ đó cho đến nay đã trên 30 năm. Ngoài ra, còn phù hợp với lời khai của bà Nguyễn Thị S (mẹ ruột của ông Lê Phước Hoàn H) tại biên bản ghi nhận ý kiến của Tòa án vào ngày 20/12/2011, bà S xác nhận nguồn gốc đất tranh chấp là của ông cố để lại cho ông nội chồng của bà S (ông cố ông H và ông H1), bà S, ông H không trực tiếp quản lý sử dụng, chỉ tới lui nhang khói, lễ giỗ, đến năm 1991 bà S đi nước ngoài (Hoa Kỳ) đoàn tụ cùng con, nhà phủ thờ và đất thì ông H1 trực tiếp quản lý, sử dụng cho đến nay.

[5]. Tại phiên toà phúc thẩm ngày 27/3/2024 nguyên đơn bà X yêu cầu Tòa án ngừng phiên toà xem xét thẩm định lại tài sản trên đất tranh chấp. Sau khi phiên toà tạm ngừng, đến ngày 26/4/2024 Toà án tiến hành xem xét thẩm định lại tài sản trên đất tranh chấp. Căn cứ Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 13/6/2018 do Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L4 lập, các biên bản xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án L. Thể hiện trên đất tranh chấp hiện tại ông H1 đã xây dựng công trình vật kiến trúc gồm: Đối với căn nhà phủ thờ, ông H1 sửa chữa vách tường, dán gạch men và xây dựng mới nối liền với căn nhà phủ thờ, chiều dài 5,5m, chiều ngang 10,5m có kết cấu bê tông cốt thép, vách xây gạch, dán gạch men toàn bộ, nền lót gạch men, mái lợp tole, trần đóng la phong nhựa và căn nhà cặp bên nhà phủ thờ có kết cấu khung sắt tiền chế có diện tích 41,2m[2 ]tại các điểm 33, 43, 31, 29, 30, 28 và nhiều công trình phụ được thể hiện tại Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 13/6/2018, ngoài ra trên đất ông H1 đã xây dựng hàng rào toàn bộ khu đất, kết cấu bê tông cốt thép, cột bê tông (20cm x 20cm), chiều cao của mỗi cột từ 2,2m đến 2,4m, khoảng cách giữa các cột từ 2,5m đến 2,7m, vách xây gạch chiều cao từ 1,1m đến 1,3m, trên đầu vách tường kéo lưới B40, cao 1,1m cộng với sắt hộp loại kém (2cm x 4cm và 3cm x 6cm) và trồng nhiều loại cây gồm: Dừa, xoài, mít, mận, gáo, bằng lăng, me chua, khế, cây trà xanh, chuối, cây mai, cây nguyệt quế…, ao đang nuôi cá.

[6]. Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, thấy rằng, hợp đồng được lập thành văn bản ngày 29/11/2006, được Ủy ban nhân dân phường B chứng thực vào ngày 05/12/2006. Tuy nhiên, về hình thức và nội dung của hợp đồng không tuân thủ theo quy định của Bộ luật Dân sự vào thời điểm tặng cho quyền sử dụng đất được quy định tại các Điều 722, 723 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Bởi lẽ, theo yêu cầu của nguyên đơn tại đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án đều xác định đây là hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất nhưng theo hợp đồng mà nguyên đơn cung cấp thể hiện là “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Đồng thời, về nội dung của hợp đồng không thể hiện lý do tặng cho quyền sử dụng đất; tình trạng đất; không thoả thuận thời hạn thực hiện hợp đồng; quyền và nghĩa vụ của các bên khi xác lập hợp đồng được thực hiện theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Tại thời điểm thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thì trên đất đã có căn nhà, công trình xây dựng, vật kiến trúc và nhiều cây trồng trên đất nhưng không được thể hiện trong nội dung của hợp đồng.

[7]. Bên cạnh đó, ngoài ông H1, bà L đang sinh sống trong căn nhà trên quyền sử dụng đất mà ông H1, bà L tặng cho ông H, bà X vào thời điểm xác lập hợp đồng thì còn có các con (H3, H2, H4) con của ông H1, bà L cùng sinh sống trong căn nhà. Ngoài căn nhà này, thì ông H1, bà L và những người này không còn chỗ ở nào khác. Do đó, việc tặng cho quyền sử dụng đất của ông H1, bà L sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người đang sinh sống trong căn nhà.

Do việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H1, bà L với ông H, bà X vi phạm về hình thức, nội dung, điều kiện có hiệu lực, nguyên tắc thực hiện của hợp đồng và hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, đồng thời tại phiên toà phúc thẩm các đương sự, nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất nguồn gốc nhà đất tranh chấp là của cụ Lê Văn T2 (ông cố ông H và ông H1) để lại làm phủ thờ chung, chưa xác định thuộc quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất của ông H1, bà L, nên ông H1, bà L không có quyền định đoạt đối với tài sản này. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông H1, bà L với ông H, bà X vô hiệu là hoàn toàn có căn cứ.

[8]. Về giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu: Do hợp đồng tặng cho vô hiệu nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, từ khi xác lập hợp đồng cho đến nay, các bên chưa giao nhận tài sản cho nhau. Đồng thời, các bên không yêu cầu bồi thường thiệt hại. Cho nên, Tòa án cấp sơ thẩm không đặt ra xem xét giải quyết là hoàn toàn phù hợp.

[9]. Xét thấy, việc ông H1, bà L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00938aA ngày 27/9/2005 và số H00939aA ngày 27/9/2005 mang tên ông H1, bà L là chưa đúng đối tượng. Bởi vì, tại phiên toà phúc thẩm các đương sự, nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất nguồn gốc nhà đất tranh chấp là của cụ Lê Văn T2 (ông cố ông H và ông H1) để lại làm phủ thờ chung, chưa xác định thuộc quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất cho ai. Đồng thời, phía bị đơn cũng xác nhận vào năm 1988 họ tộc họp mặt thống nhất bàn giao nhà phủ thờ lại cho gia đình ông H1 quản lý (chỉ nói miệng), ngoài ra không có bất cứ văn bản hay tài liệu nào thể hiện ông H1 được quyền sở hữu, sử dụng nhà đất hết, với ông H1 có yêu cầu phản tố, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng cấp sơ thẩm không xem xét, ngoài ra ông H1 không có yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất nhưng cấp sơ thẩm công nhận là không đúng. Tuy nhiên, thiếu sót của cấp sơ thẩm không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, cho nên cấp phúc thẩm cần khắc phục nhằm giải quyết triệt để vụ án.

Hội đồng xét xử, căn cứ vào Điều 34 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, để xem xét hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00938aA ngày 27/9/2005 và số H00939aA ngày 27/9/2005 mang tên ông H1, bà L, đã chỉnh lý biến động sang tên cho ông H, bà X.

Trong quá trình kháng cáo cũng như tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn bà X không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới nên không có cơ sở chấp nhận.

[10]. Từ các nhận định như trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm, Quyết định: Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lữ Thị Thanh X. Buộc ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L di dời đi nơi khác, giao trả đất và nhà cho ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X quản lý, sử dụng.

Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm 240/2023/DS-ST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

[11]. Về chi phí tố tụng phúc thẩm: Bà X phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, bà X đã nộp tạm ứng đủ chi phí tố tụng.

[12]. Về án phí phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên bà X không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn trả cho bà X số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm.

[13]. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Phúc xử:

- Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Lữ Thị Thanh X yêu cầu ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L di dời đi nơi khác, giao trả đất và nhà cho ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X quản lý, sử dụng.

- Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm 240/2023/DS-ST ngày 18/09/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X về việc yêu cầu ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L và những người đang sinh sống trong căn nhà di dời ra khỏi nhà để giao trả đất và nhà cho ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X quản lý, sử dụng.

- Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lê Bửu H1 và bà Phạm Kim L về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng (có nội dung tặng cho) quyền sử dụng đất ngày 29 tháng 11 năm 2006, giữa bên chuyển nhượng ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L, bên nhận chuyển nhượng ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X là vô hiệu, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00938aA ngày 27/9/2005 và số H00939aA ngày 27/9/2005 đứng tên ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L, đã được Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố L chỉnh lý trang 4 xác nhận chủ sử dụng từ ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L sang ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X vào ngày 26/12/2006.

Về chi phí tố tụng:

- Ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X phải chịu 5.877.000đ (năm triệu, tám trăm bảy mươi bảy nghìn đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá mà ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X đã tạm ứng. Ông H, bà X đã nộp đủ chi phí tố tụng.

- Bà Lữ Thị Thanh X phải chịu 1.000.000đ (một triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ giai đoạn phúc thẩm, bà X đã nộp đủ chi phí tố tụng.

- Ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L phải chịu 5.000.000đ (năm triệu đồng) chi phí giám định mà ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L đã tạm ứng. Ông H1, bà L đã nộp đủ chi phí tố tụng.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X phải chịu 43.314.260đ (bốn mươi ba triệu ba trăm mười bốn nghìn hai trăm sáu mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) theo biên lai số 04455 ngày 04/3/2010 do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên cấp. Ông Lê Phước Hoàn H, bà Lữ Thị Thanh X còn phải nộp thêm 43.114.260đ (bốn mươi ba triệu một trăm mười bốn nghìn hai trăm sáu mươi đồng).

- Ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông Lê Bửu H1, bà Phạm Kim L số tiền tạm ứng án phí đã nộp 4.245.000 (bốn triệu, hai trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 002420 ngày 09/8/2012 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Về án phí phúc thẩm: Bà Lữ Thị Thanh X không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả lại cho bà X 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002363 ngày 05/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp đòi tài sản là nhà và đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 125/2024/DS-PT

Số hiệu:125/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/05/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;