TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 519/2022/DS-PT NGÀY 14/12/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Ngày 14/12/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố H tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 294/2020/TLPT-DS ngày 11 tháng 6 năm 2020, về việc “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất”; Do Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DS-ST ngày 05/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức bị kháng cáo; Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2022/QĐXX - PT ngày 31 tháng 3 năm 2022; Thông báo mở lại phiên tòa số 672/2022/TB-TA ngày 18/11/2022; Giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Như Gi, sinh năm 1970; Trú tại: Đội 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H. Có mặt
Đồng bị đơn: Ông Nguyễn Như H, sinh năm 1944. Vắng mặt
Anh Nguyễn Như T, sinh năm 1968. Có mặt Đều trú tại: Đội 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H.
Người đại theo ủy quyền của ông H và anh Th: Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1993; Trú tại: Đội 9, xã D Liễu, huyện Hoài Đức, TP H. Có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Nguyễn Phan H, sinh năm 1951; Trú tại: tổ dân phố Trung 6, phường Tây Tựu, quận Bắc Từ Liêm, thành phố H; Có mặt
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Như R, sinh năm 1966. Vắng mặt
2. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1967. Vắng mặt
3. Anh Nguyễn Như M1, sinh năm 1988. Vắng mặt
4. Chị Lê Thị M, sinh năm 1990. Vắng mặt
5. Cháu Nguyễn Thị Bảo L, sinh năm 2011 (con anh M1, chị M) Đều trú tại: Đội 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H.
6. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1955. Vắng mặt
7. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1962. Vắng mặt.
Đều trú tại: thôn 2, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H
8. Ông Nguyễn Như L, sinh năm 1948. Vắng mặt.
9. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1948. Vắng mặt.
10. Anh Nguyễn Như H, sinh năm 1972. Vắng mặt.
11. Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1973. Vắng mặt.
12. Anh Nguyễn Như K, sinh năm 1993. Vắng mặt.
13. Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 2001; Anh Nguyễn Như K, sinh năm 2005 (con anh Nguyễn Như H và chị Nguyễn Thị Y). Vắng mặt
Đều trú tại: Đội 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H 14. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1960; Trú tại: thôn Đức Thành, xã Hoài Đức, huyện Lâm H, tỉnh Đ. Vắng mặt
15. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1972. Vắng mặt.
16. Anh Nguyễn Như D, sinh năm 1991. Vắng mặt.
17. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993. Vắng mặt.
Đều trú tại: Đội 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H.
18. Cháu Nguyễn Như Đ, sinh năm 2013; Cháu Nguyễn Như Đ, sinh năm 2015 (do anh D và chị H giám hộ)
19. Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1993; Trú tại: Đội 9, xã D Liễu, huyện Hoài Đức, thành phố H.Có mặt
20. Anh Nguyễn Như L, sinh năm 1973; Trú tại: Đội 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H; Vắng mặt
21. Anh Nguyễn Như S, sinh năm 1966. Trú tại: Thôn 3, Phú D, Hoài Đức, Lâm H, Đ. Vắng mặt
22. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975. Vắng mặt
23. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1979. Vắng mặt Đều trú tại: thôn 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H.
24. Ông Nguyễn Như L, sinh năm 1971; Trú tại: Số 31/61, phường Thạnh L, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt
25. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1973; Có mặt.
26. Anh Nguyễn Như H, sinh năm 1992; Vắng mặt.
27. Anh Nguyễn Như G, sinh năm 1994; Vắng mặt.
28. Chị Mầu Thị T, sinh năm 1993; Vắng mặt.
29. Chị Mầu Thị Ng, sinh năm 1995; Vắng mặt.
30. Cháu Nguyễn Thị Kim Ng, sinh năm 2018 (con anh H, chị T)
31. Cháu Nguyễn Như Bảo D, sinh năm 2018 (con anh G, chị Ng)
Người đại diện theo ủy quyền của bà H, anh H, anh G, chị T và chị Ng: Ông Nguyễn Như Gi; sinh năm 1970; Trú tại: Đội 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H. Có mặt
32. Bà Nguyễn Thị Kh, sinh năm 1955; Trú tại: Thôn 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H. Vắng mặt
33. Ủy ban nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố H; Địa chỉ: Thị Trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức, thành phố H. Vắng mặt
34. Ủy ban nhân dân xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, TP. H. Vắng mặt
Người kháng cáo : Ông Nguyễn Như H; Anh Nguyễn Như T; Chị Nguyễn Thị D, Chị Nguyễn Thị H, Anh Nguyễn Như D.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại Đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ cuug cấp cho Tòa án, biên bản hòa giải, biên bản đối chất, các văn bản tố tụng, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn là ông Nguyễn Như Gi trình bày có nội dung:
Nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp giữa ông với ông Nguyễn Như H và anh Nguyễn Như Th trước đây là ao của bố mẹ ông là cụ Nguyễn Như D, Nguyễn Thị T. Năm 1992, hộ gia đình cụ Nguyễn Như D gồm 6 tiêu chuẩn là: Cụ Nguyễn Như D, cụ Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Như Gi, ông Nguyễn Như R, bà Nguyễn Thị X (vợ ông R) và Liệt sỹ Nguyễn Như Bái được Nhà nước giao đất % - đất làm kinh tế phụ gia đình – vào thửa ao này. Tiêu chuẩn mỗi người được giao tại thời điểm chia đất của xã Cát Quế là 1,5 thước/ 1 người, nhận vào ao thì được gấp đôi là 1,5 thước x 2 = 3 thước tương đương là 72m2/1 người. Toàn bộ diện tích đất kinh tế phụ gia đình này hiện do gia đình ông H và con trai ông H là anh Th quản lý, sử dụng còn gia đình ông L sử dụng bao nhiêu ông không rõ.
Cụ Nguyễn Như D và cụ Nguyễn Thị T sinh thời có 8 người con đẻ là: Nguyễn Như H, Nguyễn Như L, Nguyễn Như Bái (là Liệt sỹ, hy sinh năm 1972, chưa có vợ con), Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Như R và ông là Nguyễn Như Gi.
Khi còn sống bố, mẹ ông chung sống cùng vợ chồng ông và chung hộ khẩu với gia đình ông. Mẹ ông là cụ T chết năm 2000 và cụ D chết năm 2003. Trước khi chết cụ D và cụ T có di chúc miệng cho ông hưởng thừa kế đất đai, tài sản, thực hiện việc cúng giỗ và hưởng chế độ Liệt sĩ Bái.
Năm 1983, bố mẹ ông có xây dựng 02 gian nhà trên một phần đất tranh chấp để bố, mẹ ông sử dụng. Năm 1987 ông Nguyễn Như R có ra ở trên 02 gian nhà này. Năm 1990, ông R chuyển về phần diện tích đất ông R hiện nay đang ở. Sau khi bố, mẹ ông mất thì thửa đất đang tranh chấp này do ông H quản lý. Năm 2005, anh T là con ông H và vợ con anh Th phá bỏ 02 gian nhà cũ của bố mẹ, xây dựng nhà và các công trình đồng thời lấp ao như hiện nay. Khi gia đình anh T xây dựng nhà và các công trình trên đất thì gia đình ông không có ý kiến gì bởi vì thời điểm đó ông chưa tìm được giấy tờ thể hiện việc gia đình ông được cấp đất kinh tế phụ gia đình vào thửa ao này.
Nay ông khởi kiện yêu cầu gia đình ông H, anh T và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang quản lý phần diện tích đất % - đất làm kinh tế phụ gia đình của gia đình ông- phải trả lại ông phần tiêu chuẩn đất của ông và ông Nguyễn Như Bái. Đối với tài sản gia đình anh T đã phát triển trên đất, ông yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông chỉ biết phần tiêu chuẩn đất %- đất làm kinh tế phụ gia đình của ông nằm trong thửa đất số 243, tờ bản đồ 321-A-IV tại thppn 1 xã Cát Quế, huyện Hoài Đức hiện đang do anh Th cùng vợ con anh Th quản lý, sử dụng còn ông L hay anh H có quản lý phần diện tích đất nào hay không thì ông đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trên cơ sở pháp luật.
*B ị đơn là ông Nguyễn Như H và người đại diện theo ủy quyền của ông H trình bày:
Nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp là thửa đất ao của cụ Nguyễn Như D là bố đẻ của ông để lại. Cụ D cho ông ra ở từ năm 1980. Khi ra đó ở ông đã xây được 02 gian nhà cấp 4, ông ở đó được một thời gian thì cho vợ chồng ông R ra ở. Ông R ở khoảng 02 năm thì ông R xây nhà trên thửa đất vườn của bố ông cho và dọn về đó ở. Năm 1990 , ông cho vợ chồng con trai ông là anh T ra ở. Anh T đã ở trên thửa đất hiện nay đang tranh chấp từ năm 1990. Gia đình anh T đã lấp ao, xây nhà và phát triển được các công trình trên đất như hiện nay, ông không có đóng góp công sức gì.
Nay ông Gi cho rằng thửa đất này được cấp đất kinh tế phụ gia đình cho gia đình cụ Nguyễn Như D, trong đó có tiêu chuẩn của ông Nguyễn Như Gi, Nguyễn Như Bái thì ông không biết việc cấp đất này, ông chỉ biết đây là thửa đất bố ông cho ông ra ở từ trước, không biết là đất phần trăm hay đất kinh tế phụ gia đình được cấp vào đây. Việc bố ông cho ông ra đây ở không có văn bản giấy tờ gì. Theo ông, tiêu chuẩn đất % gia đình cụ D được cấp là cấp vào đất vườn hiện nay do ông Nguyễn Như R đang quản lý. Thửa đất anh Th con trai ông quản lý không có đất % hay đất kinh tế phụ gia đình là tiêu chuẩn của ông Gi ở đó.
Ông có vợ bà Nguyễn Thị Thới đã chết năm 1992. Vợ chồng ông có 8 người con là: Nguyễn Như Hùng (là liệt sỹ không có con), Nguyễn Như S hiện nay ở trong Đ, Nguyễn Như T, Nguyễn Như L hiện nay đang ở thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Như L, Nguyễn Thị L hiện nay ở cát Quế, Nguyễn Thị Can (đã chết từ lâu không có chồng con), Nguyễn Thị L hiện nay đang ở xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H.
Nay ông Gi khởi kiện đòi quyền sử dụng đất nông nghiệp theo tiêu chuẩn thì ông không đồng ý vì ông đã sử dụng thửa đất này lâu rồi. Hơn nữa theo ông, tiêu chuẩn đất %- đất kinh tế phụ gia đình - của ông Gi đã được cấp vào diện tích đất hiện nay ông Gi và ông R đang quản lý tại thửa 254. Ông Nguyễn Như Gi khởi kiện yêu cầu ông và anh Th trả lại tiêu chuẩn đất % (đất kinh tế phụ gia đình) là hoàn toàn không có căn cứ vì ông Gi không chứng minh được phần diện tích đất ông Gi đi đòi nằm ở đâu, diện tích bao nhiêu m2, phần của ông Bái cũng vậy. Ai xác nhận phần của ông Bái giao cho ông Gi được sử dụng mà ông Gi đòi của ông Bái?. Ông đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Như Gi.
*Bị đơn là anh Nguyễn Như Th và người đại diện theo ủy quyền của anh Th trình bày:
Nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp hiện anh và vợ con anh đang quản lý, sử dụng là thửa đất ao của cụ Nguyễn Như D là ông nội anh để lại. Ông nội anh cho bố anh là Nguyễn Như H ra ở từ năm 1980. Khi ra đó ở bố anh đã xây được 02 gian cấp 4, bố anh ở đó được một thời gian thì cho vợ chồng ông R, bà X ra ở khoảng 02 năm thì ông R xây nhà trên thửa đất vườn của ông nội anh cho và dọn về đó ở. Năm 1990, bố anh cho vợ chồng anh ra ở, vợ chồng anh đã san lấp toàn bộ thửa đất anh đang quản lý sử dụng, diện tích khoảng hơn 500 m2. Năm 2005, vợ chồng anh xây dựng toàn bộ công trình trên đất và quản lý sử dụng cho đến nay. Hiện nay diện tích đất này chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Anh khẳng định toàn bộ nhà, đất trên gia đình anh không cầm cố, thế chấp, cho thuê, đổi hay cho ai mượn.
Gia đình anh gồm có: Anh là Nguyễn Như T, vợ anh là chị Nguyễn Thị D, con trai là Nguyễn Như D, con dâu là Nguyễn Thị Hvà 2 cháu nội là Nguyễn Như Đ, Nguyễn Như Đ đang sinh sống. Trước năm 2012 thì còn có con gái anh là Nguyễn Thị G ở, ngoài ra không còn ai khác nữa.
Nay ông Gi cho rằng thửa đất anh đang quản lý, sử dụng là thửa đất đất kinh tế phụ gia đình (đất %) hộ gia đình cụ Nguyễn Như D được cấp trong đó có tiêu chuẩn của ông Nguyễn Như Gi, ông Nguyễn Như Bái thì anh không đồng ý. Theo anh, đây là đất ao do các cụ để lại, không phải là đất phần trăm. Diện tích 175 m2 đất phần trăm ông Gi khởi kiện do ông Nguyễn Như R đang quản lý, sử dụng nằm trong diện tích đất 606 m2 thửa 254 gồm 360 m2 đất thổ cư, 246 m2 đất vườn mà cụ D đã được cấp GCNQSD; Lúc còn sống thì cụ D quản lý 360 m2 đất ở, sau khi cụ D chết thì ông Gi quản lý, sử dụng 360 m2 đất này cho đến nay, số còn lại là 246 m2 đất vườn do ông R quản lý, sử dụng. Như vậy đất rau hay đất % hộ gia đình cụ D được cấp không phải là thửa đất anh đang quản lý, sử dụng mà chính là thửa đất mà ông Nguyễn Như R quản lý, sử dụng.
Nay ông Gi khởi kiện đòi quyền sử dụng đất nông nghiệp theo tiêu chuẩn của ông Gi, ông Nguyễn Như Bái (Liệt sĩ) nằm trong thửa đất anh đang quản lý thì anh không đồng ý. Đề nghị Tòa bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Như Gi vì ông Gi cũng không chứng minh được phần diện tích đất ông Gi đi đòi nằm ở đâu, diện tích bao nhiêu m2, phần của ông Bái cũng vậy? Ai xác nhận phần của ông Bái giao cho ông Gi được sử dụng?.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Như R trình bày:
Nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp là của bố, mẹ ông để lại. Năm 1987, thực hiện chủ trương chung của nhà nước về việc chia tiêu chuẩn đất % (đất rau), tại thời điểm đó, vợ chồng ông ở chung hộ với bố, mẹ ông và ông Gi. Ông được biết thì gia đình ông được giao đất % vào thửa đất ven đê (đất đang tranh chấp), các thành viên được giao đất là bố, mẹ ông là cụ D và cụ T, vợ chồng ông là R và bà X, ông Gi và 01 tiêu chuẩn của liệt sỹ Bái. Ông không biết cụ thể mỗi tiêu chuẩn được bao nhiêu m2, đề nghị Toà xác minh tại địa phương. Khi cụ D và cụ T còn sống thì thửa đất đang tranh chấp do cụ D và cụ T quản lý. Sau khi cụ D chết, ông H cho con là anh Th sang quản lý. Khi cụ D còn sống đã có di chúc miệng là không cho ông Nguyễn Như H thửa đất này. Nếu Toà án xác định tiêu chuẩn đất nông nghiệp của ông ở thửa đất ven đê được bao nhiêu thì đề nghị Toà án xem xét trả lại vợ chồng ông theo quy định của nhà nước. Hiện nay ông Gi là người thờ cúng ông Bái là liệt sĩ nên đề nghị Toà xem xét tiêu chuẩn đất % của ông Bái giao cho ông Gi. Tiêu chuẩn đất nông nghiệp của vợ chồng ông và bố, mẹ ông, ông Gi, ông Bái (liệt sỹ) đề nghị để thành một khối, tạm giao toàn bộ cho ông Gi quản lý, sau này anh, em ông sẽ tự phân chia sau.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị X trình bày:
Bà là vợ ông Nguyễn Như R, vợ chồng bà kết hôn năm 1986, sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống cùng bố, mẹ chồng là cụ Nguyễn Như D và cụ Nguyễn Thị T, chung hộ khẩu cùng cụ D. Năm 1987 gia đình bà được nhà nước giao đất % - đất kinh tế phụ gia đình vào cùng hộ cụ D. Phần diện tích đất này được giao vào thửa ven đê là thửa đất ao cũ của cụ D và cụ T, cũng chính là thửa đất hiện nay đang tranh chấp giữa ông Gi với ông H. Thời kỳ đó gia đình cụ D, cụ T được giao đất gồm các thành viên: Cụ D, cụ T, vợ chồng bà là R và X, ông Gi và 01 tiêu chuẩn liệt sỹ là ông Bái. Hiện nay ông Bái đang do gia đình ông Gi thờ cúng. Sau khi được giao đất cho hộ gia đình cụ D thì cụ D quản lý toàn bộ, nay thửa đất này ông H cho anh T (con trai ông H) quản lý. Bà nhất trí quan điểm của ông R chồng bà là giao toàn bộ thửa đất này cho ông Gi quản lý, sau này ông, bà sẽ tự giải quyết với ông Gi sau. Khi Toà án giải quyết vụ kiện thì bà xin vắng mặt và uỷ quyền toàn bộ cho ông Nguyễn Như R tham gia giải quyết vụ án tại Toà án các cấp.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Như M1 và chị Lê Thị M trình bày: Anh, chị là con trai và con dâu của ông Nguyễn Như R và bà Nguyễn Thị X. Vợ chồng anh, chị không có công sức gì trong việc phát triển thửa đất hiện nay ông R và bà X đang quản lý. Anh chị không có ý kiến gì với yêu cầu khởi kiện của ông Gi. Khi Toà án giải quyết vụ kiện anh, chị xin vắng mặt tại Toà án.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị D và người đại diện theo ủy quyền của chị D trình bày: Chị và anh Nguyễn Như T kết hôn vào năm 1989, sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống với bố mẹ chồng là ông Nguyễn Như H và bà Nguyễn Thị Thới. Bà Thới đã chết năm 1991. Đến năm 1990 vợ chồng chị được bố, mẹ chồng cho ra ở trên thửa đất hiện nay đang tranh chấp, khi đó thửa đất này có 02 gian nhà cấp 4; 02 bể làm sắn (chiếm diện tích khoảng 1/4 thửa đất) còn lại là ao. Gia đình chị đã lấp ao (ao sâu khoảng 3m) và xây dựng toàn bộ nhà và công trình như hiện nay mà không có ai tranh chấp gì, thời điểm đó cụ D vẫn còn sống cũng không có ý kiến gì.
Nay ông Gi khởi kiện thì chị đề nghị Toà giải quyết trên cơ sở pháp luật, bảo đảm quyền lợi cho gia đình nhà chị. Chị thống nhất với ý kiến của chồng chị là anh Nguyễn Như T.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị G khai: Các chị không có công sức đóng góp gì xây dựng khối tài sản trên đất tranh chấp..
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Như L và vợ bà Nguyễn Thị C trình bày: Về nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp là thửa đất ao của cụ Nguyễn Như D và cụ Nguyễn Thị T là bố, mẹ ông bà để lại. Khi bố, mẹ ông còn sống đã chia cho vợ chồng ông một phần phần diện tích đất ao này (khoảng 300 m2), có ranh giới như hiện nay, ông cho con trai lớn là anh Nguyễn Như H và vợ là chị Nguyễn Thị Y quản lý và sinh sống. Toàn bộ tài sản trên diện tích đất đó là do vợ chồng ông, bà xây dựng lên, vợ chồng anh H và chị Y có hỗ trợ.
Quan điểm của ông, bà là: Phần diện tích đất gia đình ông, bà hiện nay đang sử dụng đã được bố, mẹ cho từ lâu thì đề nghị Toà án công nhận. Còn phần diện tích đất hiện do gia đình anh T (con trai ông H) đang quản lý, sử dụng mà ông Gi đang khởi kiện thì đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc gia đình cụ D (trong đó có ông Gi) được nhà nước giao đất kinh tế phụ gia đình (đất %) ở đâu thì ông, bà không biết. Khi Toà án giải quyết vụ kiện ông, bà xin vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Như H trình bày: Anh là con trai ông Nguyễn Như L và bà Nguyễn Thị C. Nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp giữa ông Nguyễn Như Gi với gia đình ông Nguyễn Như H là của cụ Nguyễn Như D và cụ Nguyễn Thị T để lại. Anh chỉ biết khi cụ D còn sống đã cắt cho bố anh là ông Nguyễn Như L phần diện tích đất hiện nay anh đang ở và vợ chồng anh được bố mẹ cho ra ở từ năm 1992 đến nay. Phần diện tích đất của gia đình anh đã được tách riêng trên bản đồ địa chính xã, không có ai tranh chấp đến phần diện tích đất này.
Nay việc kiện xảy ra quan điểm của anh là đề nghị hai bên hoà giải bởi vì phần diện tích đất ao ông nội anh cho bố anh sau đó đã được nhà nước chuyển phần diện tích đất kinh tế phụ của gia đình anh vào đây. Bản thân anh không có quyền lợi gì trong phần diện tích đất ông Gi đang khởi kiện ông H. Toàn bộ tài sản phát triển được trên phần diện tích đất gia đình anh đang ở là công sức của bố, mẹ anh và vợ chồng anh. Khi toà án giải quyết vụ kiện anh xin vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Y trình bày:
Chị là vợ của anh Nguyễn Như H. Chị không biết gì về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp giữa ông Nguyễn Như Gi với ông Nguyễn Như H. Thửa đất hiện nay vợ chồng chị đang ở là do vợ chồng chị được bố, mẹ chồng là ông Nguyễn Như L và bà Nguyễn Thị C cho ở từ năm 1992. Toàn bộ tài sản trên đất hiện nay là công sức của bố, mẹ chồng chị là ông Nguyễn Như L, bà Nguyễn Thị C và công sức của vợ chồng chị.
Hiện nay trên thửa đất này chỉ có vợ chồng chị và 03 người con là: Nguyễn Như K, sinh năm 1993, Nguyễn Thị M, sinh năm 2001 và Nguyễn Như K, sinh năm 2005 đang ở. Nay việc kiện xảy ra, gia đình nhà chị không liên quan gì đến phần diện tích đất đang tranh chấp. Khi Toà án giải quyết vụ kiện chị xin vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Như K trình bày: Anh là con ông Nguyễn Như H và bà Nguyễn Thị Y. Anh không biết gì về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp giữa ông Nguyễn Như Gi với ông Nguyễn Như H. Anh chỉ biết thửa đất hiện nay gia đình anh đang ở là của ông bà nội anh là ông Nguyễn Như L và bà Nguyễn Thị C cho bố mẹ anh ở. Bản thân anh không có công sức đóng góp gì vào khối tài sản này.
Nay việc kiện xảy ra đề nghị Toà án căn cứ pháp luật giải quyết. Khi Toà án giải quyết vụ kiện anh xin vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị H và bà Nguyễn Thị H trình bày: Các bà là con của cụ Nguyễn Như D và cụ Nguyễn Thị T. Cụ T đã chết năm 2000 và cụ D đã chết năm 2003. Cụ D và cụ T có 8 người như ông Nguyễn Như Gi khai.
Thửa đất hiện nay đang tranh chấp có nguồn gốc là đất ao của cụ Nguyễn Như D và cụ Nguyễn Thị T để lại. Theo quy định của địa phương thì tiêu chuẩn đất % của cụ D, cụ T, ông R, bà X (vợ ông R), ông Gi, ông Bái (là Liệt sỹ) được chia về thửa đất ao này của cụ D. Cụ thể được bao nhiêu m2 thì các bà không biết. Hiện nay các bà giao cho ông Nguyễn Như Gi thờ cúng liệt sỹ là ông Nguyễn Như Bái. Khi bố, mẹ các bà còn sống ở cùng và chung hộ khẩu với ông Gi. Trước đây gia đình đã sắp xếp theo phương án cắt từ đầu đốc của nhà trên thửa đất tranh chấp do anh Th quản lý đến phần còn lại trả cho ông Gi, phần còn lại để gia đình ông H, anh T quản lý nhưng không được phía gia đình ông H và anh T chấp nhận. Nay việc kiện xảy ra, đề nghị Toà giải quyết hoà giải hai bên cho tình cảm. Nếu không hoà giải được đề nghị Toà giải quyết theo pháp luật. Bản thân các bà không yêu cầu quyền lợi gì trên thửa đất này. Khi Toà án giải quyết vụ kiện, các bà xin vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị H trình bày:
Bà là con của cụ Nguyễn Như D và cụ Nguyễn Thị T.
Trong quá trình chung sống bố, mẹ bà đã tạo lập được một số tài sản là quyền sử dụng đất và các công trình trên đất, bố mẹ bà đã chia riêng ai phận đấy đầy đủ.
Thửa đất hiện nay đang tranh chấp giữa ông Gi và ông H có nguồn gốc là thửa đất ao của bố, mẹ bà. Thửa đất ao này đã được địa phương cấp đất % (đất rau) cho các thành viên gồm: Bố, mẹ bà, ông R, bà X, ông Bái (là Liệt sỹ) và ông Gi. Khi bố, mẹ bà còn sống ở cùng và chung hộ khẩu với ông Gi. Thửa đất tranh chấp trước đây do bố, mẹ bà quản lý. Sau khi bố, mẹ bà chết thì bà thấy ông H và con trai ông H là anh T quản lý.
Bà đề nghị Toà giải quyết vụ án theo pháp luật, bản thân bà không yêu cầu quyền lợi gì trong thửa đất này. Khi Toà án giải quyết vụ kiện bà xin vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Như S, anh Nguyễn Như L, chị Nguyễn Thị L và chi Nguyễn Thị L trình bày:
Các anh, chị là con của ông Nguyễn Như H và bà Nguyễn Thị Thới. Mẹ các anh chị là bà Nguyễn Thị Thới đã chết năm 1992. Sinh thời bố, mẹ các anh chị sinh được 8 người con như bố các anh, chị trình bày Nguồn gốc thửa đất hiện nay đang tranh chấp trước đây là đất ao, bố các anh chị là ông Nguyễn Như H đã sử dụng từ năm 1980, trên thửa đất ao này có 1/4 diện tích là đất liền còn lại 3/4 diện tích là đất ao. Bố các anh, chị đã xây một gian nhà nhỏ 02 gian trên phần diện tích đất liền phần còn lại là ao, bố các anh, chị thả bèo để chăn nuôi. Năm 1990 bố các anh, chị đã cho vợ chồng anh Nguyễn Như T ra ở và quản lý thửa ao này. Vợ chồng anh T đã phá bỏ nhà cũ 02 gian và đổ đất lấp ao xây dựng lại toàn bộ công trình như hiện nay, đến năm 2013 mới xảy ra tranh chấp, nguyên nhân tranh chấp là do ông Gi cho rằng đây là đất phần % trong đó có tiêu chuẩn của ông Gi.
Nay ông Gi khởi kiện yêu cầu Toà án xem xét buộc ông H, anh T phải trả lại đất cho ông Gi thì các anh, chị đều có quan điểm đề nghị Toà án xem xét thửa đất này ông H đã sử dụng ổn định từ năm 1980 đến khi xảy ra tranh chấp và ông Gi không có đất % hay đất kinh tế phụ gia đình trong thửa đất này. Bản thân các anh, chị không có quyền lợi gì trong thửa đất này. Khi Toà án giải quyết vụ kiện các anh, chị xin vắng mặt.
*Bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà là vợ của ông Nguyễn Như Gi, bà hoàn toàn nhất trí với lời trình bày của ông Gi. Bà đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Gi, buộc gia đình ông H, anh T và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang quản lý phần diện tích đất phải trả lại cho ông Gi phần diện tích đất % - đất kinh tế phụ gia đình- là tiêu chuẩn của ông Gi và ông Nguyễn Như Bái (là liệt sĩ). Vì phần đất hiện nay gia đình anh T + vợ + các con anh Th đang quản lý là phần diện tích đất nông nghiệp gia đình cụ D được cấp theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước là % (đất kinh tế phụ gia đình) có phần tiêu chuẩn của ông Gi và ông Bái (liệt sĩ). Bà ủy quyền cho ông Nguyễn Như Gi tham gia tố tụng tại Tòa án.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Uỷ ban nhân dân huyện Hoài Đức do ông Nguyễn Quang Đức đại diện theo pháp luật trình bày:
Hiện nay phòng Tài nguyên và môi trường huyện Hoài Đức chỉ lưu sổ “Danh sách các hộ được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất đợt 1 Quế D”, không lưu hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ ông D mà Hồ sơ này do Ủy ban nhân dân xã Cát Quế lưu. Đối với tranh chấp giữa ông Gi và ông H, ông T, Uỷ ban nhân dân huyện Hoài Đức đề nghị Toà án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
*Tại các văn bản tố tụng, các tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án, đại diện Ủy ban nhân dân xã Cát Quế cho biết :
Nguồn gốc thửa đất hiện nay anh Nguyễn Như Th và vợ con anhTh đang quản lý có tiêu chuẩn đất % - đất kinh tế phụ gia đình của các nhân khẩu: Cụ Nguyễn Như D, cụ Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Như Gi, ông Nguyễn Như R, bà Nguyễn Thị X (vợ ông R), ông là Nguyễn Như Bái là liệt sỹ. Hộ gia đình cụ D được giao đất % (đất kinh tế phụ gia đình) vào thửa 243 hiện nay đang do anh Th và vợ, con anh Th và một phần thửa đất do anh H và gia đình anh H đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra hộ gia đình cụ D không có thửa đất % nào khác. Tại thời điểm chia đất, hộ gia đình của cụ D được giao vào đất ao thì mỗi tiêu chuẩn được một gấp đôi.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Như H, anh Nguyễn Như G, chị Mầu Thị T và chị Mầu Thị Ng: Ủy quyền cho ông Nguyễn Như Gi tham gia tố tụng.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Như L, bà Chu Thị Kh: Không đến Tòa làm việc theo giáy triệu tập, không cung cấp lời khai cho Tòa án.
Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DS-ST ngày 05/8/2019 của Tòa án huyện Hoài Đức xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Như Gi về việc kiện yêu cầu “Đòi quyền sử dụng đất nông nghiệp” tại thửa đất số 240 và thửa đất số 243, tờ bản đồ số 321-A-IV tại Khu vực 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H đối với bị đơn là ông Nguyễn Như H, anh Nguyễn Như Th. Tài sản tranh chấp là 144 m2 đất % - đất kinh tế phụ gia đình nằm trong thửa 243 hiện đang do ông Nguyễn Như H, anh Nguyễn Như T, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, cháu Nguyễn Như Đ (cháu Đ và cháu Đ do anh D, chị Hlà đại diện theo pháp luật), ông Nguyễn Như L, anh Nguyễn Như H, chị Nguyễn Thị Y, anh Nguyễn Như K, chị Nguyễn Thị M, anh Nguyễn Như K (chị M và anh K do anh H và chị Y là đại diện theo pháp luật) quản lý tại địa chỉ: thôn 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H.
2. Buộc ông Nguyễn Như H, anh Nguyễn Như T, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, cháu Nguyễn Như Đ (cháu Đ và cháu Đ do anh D, chị Hlà đại diện theo pháp luật) trả lại ông Nguyễn Như Gi phần diện tích đất % - đất kinh tế phụ gia đình là 144 m2 (phần tiêu chuẩn của ông Gi + phần tiều chuẩn của ông Bái (liệt sĩ) giao cho ông Gi quản lý sử dụng) nằm trong thửa đất số 240 và một phần thửa đất số 243, tờ bản đồ số 321-A-IV tại Khu vực 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H. Vị trí đất được xác định từ điểm 1,2,3,4, 8,1 (Có sơ đồ kèm theo), cụ thể:
Cạnh Đông giáp đường ngõ xóm dài 9,31m;
Cạnh Tây dài 9,86m giáp với thửa đất hiện ông Bách đang quản lý;
Cạnh Nam dài 15,37m giáp với thửa đất hiện gia đình anh Th đang quản lý;
Cạnh Bắc dài 14,84m giáp với thửa đất hiện ông Giới đang quản lý.
Giao ông Nguyễn Như Gi được quyền sử dụng 144 m2 và sở hữu các tài sản phát triển trên phần đất được giao gồm: gồm 01 nhà cấp 4 (khu chăn nuôi), 01 bể lọc, sân gạch, trụ cổng.
Phần diện tích đất còn lại mà anh Nguyễn Như Th, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, và cháu Nguyễn Như Đ (cháu Đ và cháu Đ do anh D, chị Hlà đại diện theo pháp luật) đang quản lý thì anh Nguyễn Như Th, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, và cháu Nguyễn Như Đ (cháu Đ và cháu Đ do anh D, chị Hlà đại diện theo pháp luật) tự mở lối đi trên phần đất mình đang quản lý.
3. Ông Nguyễn Như Gi có trách nhiệm thanh toán cho gia đình anh Nguyễn Như T, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị HNguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, cháu Nguyễn Như Đ (cháu Đ và cháu Đ do anh D, chị Hlà đại diện theo pháp luật) giá trị chênh lệch về các công trình xây dựng phát triển trên phần đất được giao và công tôn nền là 60.005.000 đồng (Sáu mươi triệu không trăm linh năm nghìn đồng).
4. Anh Nguyễn Như T, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị HNguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, cháu Nguyễn Như Đ (cháu Đ và cháu Đ do anh D, chị Hlà đại diện theo pháp luật) được nhận số tiền là 60.005.000 đồng (Sáu mươi triệu không trăm linh năm nghìn đồng) do ông Nguyễn Như Gi thanh toán.
5. Không chấp nhận các yêu cầu khác của đương sự.
6. Giành quyền khởi kiện cho các đương sự bằng vụ kiện dân sự khác nếu các quy định về điều kiện khởi kiện đối với yêu cầu đó còn theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ông Nguyễn Như H, anh Nguyễn Như Th, chị Nguyễn Thị D, chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Như D có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; Người kháng cáo không rút kháng cáo;
các đương sự không thỏa thuận được với nhau.
Ông Nguyễn Phan H là Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trình bày bản luận cứ và đề nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ việc giải quyết vụ án vì: Căn cứ theo Văn bản số 147/CV-UBND ngày 15/6/2021 của UBND xã Cát Quế xác định đất % của hộ gia đình cụ D nằm tại thửa đất số 254 mà hienj gia đình ông Gia và ông R đang quản lý, sử dụng và cụ D đã dược cấp giáy chứng nhận; nguyên đơn đi kiện nhưng không đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh nguyên đơn có đất phần trăm (đất rau xanh) trong diện tích đất thửa 240, 243 mà gia đình bị đơn đang quản lý, sử dụng.
Đại diện VKSNDTP H phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Các đương sự thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa phúc thẩm. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của mình.
- Về hướng giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nọi dung vụ án, Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân TP. H đề nghị HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dan sự, hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức để giải quyết lại từ giai đoạn sơ thẩm vì các lý do:
+ Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn có yêu cầu đề nghị công nhận diện tích đất tranh chấp của gia đình bị đơn nhưng Tòa cấp sơ thẩm không hướng dẫn bị đơn làm thủ tục phản tố;
+ Cấp sơ thẩm chưa làm rõ công sức tôn tạo đất của gia đình ông H và anh Th; chưa định giá công san lấp đất của gia đình anh Th; chưa làm rõ diện tích đất thừa ra của gia đình ông L nằm tại vị trí nào?; chưa hướng dẫn gia đình cụ D làm thủ tục phân chia quyền sử dụng đất, chia thừa kế quyền sử dụng đất phần của cụ D; việc giao cả phần đất tiêu chuẩn của ông Bái cho ông Gi là chưa có căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của các thừa kế của ông Bái.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[I]. Về tố tụng:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Th nộp “Đơn phản tố” đề nghị chia di sản thừa kế của cụ D, cụ T để lại là 1.496m2 đất tại: Thửa đất số 254, TBĐ số 321-IV; thửa số 81-1, TBĐ số 12; thửa 190-3; thửa 30-2.
Xét thấy: Theo quy định tại khoản 3 Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự thì bị đơn chỉ có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do vậy, việc bị đơn ông Th nộp đơn phản tố tại phiên tòa phúc thẩm không được chấp nhận.
[II]. Về nội dung:
2.1. Xét thấy: Diện tích đất kinh tế phụ gia đình (đất phần trăm, đất rau xanh, đất màu) mà nguyên đơn ông Gi kiện đòi đối với ông H, anh Th là một phần đất thuộc 592 m2 đất ao thửa số 230 theo Bản đồ năm 1987, có nguồn gốc xa xưa của cụ D, cụ T. Năm 1990 khi đo đạc bản đồ địa chính toàn xã theo chủ trương chung thì thửa đất ao số 230 nêu trên được tách thành hai thửa là thửa 240 diện tích 109m2 và thửa 243 diện tích 497m2. Năm 1991, cụ D làm thủ tục kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với cả hai thửa đất này. Cụ thể:
+ Thửa 240 diện tích 109m2, ghi đất thổ cư;
+ Thửa 243 diện tích 497m2 ghi đất ao. Cụ D ghi tại phần ghi chú dòng: “Cho ông L 264 m2” .
Cụ D chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với cả hai thửa đất số 240 và 243 nêu trên.
Tại sổ Mục kê năm 1987 thể hiện: Cụ Nguyễn Như D sử dụng diện tích 618 m2 thửa 244 (nay là thửa 254 theo Bản đồ 1990) gồm 360 m2 đất ở, 78m2 đất vườn, 180m2 đất % ngoài ra còn sử dụng 197 m2 đất ao (không ghi đất ao thuộc thửa nào?) Năm 1992, cụ D được cấp GCNQSDĐ thửa 254 với diện tích 606m2 đất (gồm 360m2 đất ở, 246m2 đất vườn).
Theo xác nhận của UBND xã Cát Quế tại Công văn số 79/CV-UBND ngày 28/4/2022 thể hiện: Hộ gia đình cụ D gồm 03 cặp vợ chồng đủ tiêu chuẩn cấp thêm một tiêu chuẩn đất thổ cư tại vườn, tại thời điểm đó ông R được xét và cấp đất thổ cư tại vườn, hộ gia đình ông R đã nhà trên trên diện tích đất vườn 246m2 thửa 254 từ trước năm 1990 nên được địa phương giao đất ở tại vườn trước thời điểm năm 1992; Hồ sơ, tài liệu lưu giữ tại xã còn lưu danh sách các hộ được xét cấp tại chỗ có tên ông Nguyễn Như R.
Như vậy, việc cấp đất ở tại vườn cho ông R tại diện tích đất vườn 246m2 thửa 254 dẫn đến việc hộ gia đình cụ D không còn đất vườn nữa.
Theo Sổ thu thuế do UBND xã Cát Quế lập ngày 10/6/1994 cấp cho hộ cụ Nguyễn Như D thể hiện đất “vườn ao” không ghi xứ đồng là 71m2; đất “ao- vườn” diện tích 175m2. Tất cả các đương sự và UBND xã Cát Quế đều xác nhận gia đình cụ D không có ao nào khác ngoài diện tích ao thửa 230 theo bản đồ 1987 (là thửa 240 và 243 theo Bản đồ năm 1990).
Theo các biên bản xác minh tại UBND xã Cát Quế vào các ngày 15/12/2014;
29/5/2017; 23/4/2019 (tại các BL 115-118; 294-299; 618-622) do Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức và Tòa án nhân dân thành phố H thực hiện, UBND xã Cát Quế đều cung cấp thông tin: Năm 1992, khi thực hiện Chỉ thị 41/CP và Quyết định 250 của Ủy ban nhân tỉnh H Tây (cũ) về việc giao đất nông nghiệp (đất kinh tế phụ gia đình) cho các hộ gia đình, cá nhân vào diện tích đất vườn, ao còn thừa của các hộ gia đình, theo tiêu chuẩn cấp vào ao thì được tăng gấp đôi. Hộ ông L và hộ cụ D được chia tiêu chuẩn đất kinh tế phụ vào diện tích đất ao thửa 230 (theo bản đồ 1990là thửa 240 và 243).
Tuy nhiên, tại Văn bản số 147/CV-UBND ngày 15/6/2021 do UBND xã Cát Quế gửi Tòa án nhân dân thành phố H lại có nội dung: “Hiện nay theo hồ sơ lưu trữ, quản lý tại UBND xã Cát Quế có danh sách xét duyệt cấp GCNQSDĐ năm 1992 trên địa bàn xã Cát Quế đã được UBND huyện Hoài Đức xét duyệt. Trong đó có thể hiện đất % của gia đình ông Nguyễn Như D được chia tại vườn tại thửa đất số 254, TBĐ 321-A-IV với tổng diện tích 606m2, trong đó có 360m2 đất ở, 246m2 đất vườn”.
Tại Biên bản xác minh ngày 23/3/2022, UBND xã Cát Quế cung cấp ý kiến cho Tòa án NDTP H có nội dung phủ nhận ý kiến nêu tại Văn bản số 147/CV- UBND: “Văn bản số 147/CV-UBND ngày 15/6/2021 của UBND xã Cát Quế ghi nội dung đất % của gia đình ông Nguyễn Như D được chia tại thửa đất số 254, TBĐ 321A-IV với tổng diện tích 606m2 trong đó có 360m2 đất ở, 246m2 đất vườn là không chính xác theo các sổ sách lưu khác”; “UBND xã không xác định ông D được cấp đất theo Nghị định 64-CP vào thửa 240; 243” và “gia đình ông D được cấp đất theo Nghị định 64 vào đất ao thửa 240; 243 theo tiêu chuẩn 1 X 2 là do cán bộ xã xác minh qua ý kiến của ông Nguyễn Như L mà chưa có sự xác minh, kiểm chứng theo sổ sách”.
Như vậy, UBND xã Cát Quế một mặt không xác định diện tích đất %, đất kinh tế phụ gia đình của hộ gia đình cụ D không cấp vào thửa 254, một mặt cũng không xác định đất % (hay đất rau xanh, đất kinh tế phụ) của hộ gia đình cụ D được cấp vào thửa 240 hay thửa 243 vì lý do hiện tại UBND xã Cát Quế không lưu giấy tờ, văn bản về việc giao đất %.
Xét thấy: UBND xã Cát Quế không lưu giữ tài liệu ghi rõ về việc hộ gia đình ông D được giao đất kinh tế phụ vào thửa 240; 243 nhưng qua các tài liệu, hồ sơ còn lưu giữ tại UBND xã Cát Quế như: Sổ theo dõi thu thuế đất năm 1994, Danh sách xét cấp đất ở tại vườn, sổ mục kê đất qua các thời kỳ, ý kiến cung cấp của UBND xã Cát Quế trước đây và ý kiến của UBND xã Cát Quế tại Công văn số 79/CV-UBND ngày 28/4/2022 thì có căn cứ xác định: Hộ gia đình cụ D có được giao đất %, đất làm kinh tế phụ gia đình vào thửa đất ao số 230 (nay là thửa 240; 243 theo bản đồ năm 1990). Việc phủ nhận các ý kiến đã cung cấp trước đây cho Tòa án của UBND xã Cát Quế tại Biên bản xác minh ngày 23/3/2022 thể hiện công tác quản lý đất đai tại địa phương qua các thời kỳ không được chặt chẽ và thái độ thiếu trách nhiệm, thiếu nghiêm túc của người có thẩm quyền khi cung cấp ý kiến xác minh cho Tòa án làm cho việc giải quyết vụ án trở lên phức tạp.
2.2. Như trên đã nhận định, hộ gia đình cụ D và hộ gia đình ông L được giao đất %, đất kinh tế phụ gia đình tại diện tích đất ao thửa 230 (nay là thửa 240,243) của gia đình cụ D. Tuy nhiên, do diện tích ao thửa 230 chỉ có 606m2 và phần đất ao cụ D cho ông L là 264m2 nên chỉ có căn cứ xác định hộ cụ D và hộ ông L nhận theo đúng diện tích đất ao của gia đình có. Cụ thể: Hộ ông L được giao đất kinh tế phụ vào 264 m2 đất ao mà cụ D cho năm 1991; hộ cụ D được giao đất kinh tế phụ vào phần diện tích đất ao còn lại. Theo bản đồ năm 1990 thì thửa 240, 243 (là ao thửa 230 cũ) có tổng diện tích là: (109 +497)m2 = 606 m2. Như vậy, hộ cụ D được cấp đất kinh tế phụ vào 606 m2 - 264m2 = 342m2 đất ao thửa 230 (nay là thửa 240; 243).
Theo kết quả đo đạc hiện trạng thì thửa 240 và 243 có tổng diện tích là 647,1m2, trong đó do ông L (nay là gia đình anh H, chị Y) đang quản lý, sử dụng tại thửa đất 243 là 311,4 m2, so với diện tích đất ông L được giao là 264 m2 thì thừa ra 47,4 m2; Gia đình ông H (nay là anh Th, chị D và các con anh Th, chị D) quản lý, sử dụng tại thửa 240 và thửa 243 là 335,7 m2. Như vậy, phần đất kinh tế phụ gia đình của hộ cụ D được giao tại thửa 240 và 243 là: (335,7 m2 + 47,4 m2) = 383,1m2.
Tiêu chuẩn cấp đất kinh tế phụ cho hộ cụ D theo xác nhận của địa phương thì cấp cho 5 nhân khẩu và 01 tiêu chuẩn Liệt sỹ, cụ thể gồm: Cụ Nguyễn Như D, cụ Nguyễn Thị T, ông Nguyễn Như Bái (là liệt sĩ), ông Nguyễn Như R, bà Nguyễn Thị X và ông Nguyễn Như Gi. Như vậy mỗi người được hưởng 383,1m2 :6 = 63,85m2 Ông H khai, ông được cụ D cho ra làm nhà cấp 4 tại thửa đất số 240 từ năm 1980, thả bèo trên phần ao còn lại nhưng ông không đưa ra tài liệu, chứng cứ nào thể hiện cụ D cho ông hẳn ao này và không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện các thành viên trong hộ gia đình cụ D được giao đất làm kinh tế phụ gia đình đồng ý cho ông H đất này. Ông Bái hy sinh năm 1972, không có vợ con. Ông H là con trưởng trong gia đình cụ D nhưng sau khi cụ D chết việc thờ cúng ông Bái do ông Gi đảm nhiệm. Tất cả các người anh, chị em khác của Liệt sỹ Bái đều thống nhất giao cho ông Gi được quản lý, sử dụng tiêu chuẩn đất của Liệt sỹ Bái dùng vào việc thờ cúng ông Bái. Do vậy, việc ông Gi có yêu cầu đòi lại tiêu chuẩn đất của mình và tiêu chuẩn của Liệt sỹ Bái là có căn cứ. Tổng diện tích đất tiêu chuẩn của ông Gi và của Liệt sỹ Bái là 63,85m2 x 2=127,7 m2.
Bản án sơ thẩm chia kỷ phần của ông Gi và Liệt sỹ Bái vào phần diện tích đất gia đình anh Th đang quản lý, sử dụng và buộc anh Th và những người trong gia đình anh Th phải giao trả cho ông Gi 144 m2 đất và buộc ông Gi phải thanh toán chênh lệch 16,3 m2cho các tiêu chuẩn còn lại là có căn cứ. Trên phần đất ông Gi được giao có các công trình xây dựng và công sức tôn tạo, san lấp đất của gia đình anh Th, ông Gi phải thanh toán lại trị giá công sức và các công trình xây dựng này cho gia đình anh Th số tiền là 60.005.000 đồng (Sáu mươi triệu, không trăm linh năm nghìn đồng) là hợp lý.
Tuy nhiên việc bản án sơ thẩm có nhận định ông Gi phải thanh toán cho các thành viên khác trong hộ gia đình cụ D trị giá 16,3 m2 đất nhưng không được quyết định trong bản án là chưa chặt chẽ. Do vậy, cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông H, anh Th, chị Nguyễn Thị D, chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Như D, buộc ông Gi phải có trách nhiệm thanh toán số tiền là:
16,3m2 x 8.000.000đ/m2= 130.400.000đ cho các thành viên còn lại trong hộ gia đình cụ D tại thời điểm giao đất gồm: Ông R, bà X, cụ D, cụ T mỗi kỷ phần được hưởng là: 130.400.000đ : 4= 32.600.000đ, kỷ phần của D, cụ T do các thừa kế của các cụ là ông H, ông L, ông Gi, ông R, bà Ng, bà H được hưởng.
2.3. Ông R, bà X có lời khai đề nghị Tòa án xác định phần đất của ông, bà được bao nhiêu thì đề nghị trả lại cho ông, bà và ông bà gộp chung vào cùng tiêu chuẩn đất của cụ T, cụ D, ông Bái để giao cho ông Gi quản lý, không đề nghị phân chia riêng. Tuy nhiên, ông R, bà X không có đơn yêu cầu độc lập và không có yêu cầu kháng cáo. Do vậy, phần đất 191,7m2 của cụ D, cụ T, ông R, bà X mà gia đình anh Th đang quản lý tạm giao cho gia đình anh Th tiếp tục quản lý, sử dụng. DT đất 47,4 m2 của cụ D, cụ T, ông R, bà X mà gia đình anh H, chị Y đang quản lý, sử dụng vẫn tiếp tục tạm giao cho anh H, chị Y sử dụng.
Giành quyền khởi kiện cho ông R, bà X và các thừa kế của cụ T, cụ D bằng vụ kiện khác đối với kỷ phần đất của ông R, bà X, cụ T, cụ D quy định theo pháp luật.
Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố H tại phiên tòa hôm nay không phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.
[3]. Về án phí DSST: Ông H và anh Th là bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật đối với vụ án không giá ngạch là 300.000đ, mỗi người chịu 150.000đ.
Tuy nhiên, ông H là người cao tuổi nên được miễn án phí. Anh Nguyễn Như Th phải chịu 150.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
Bản án sơ thẩm buộc cả chị D là vợ anh Th là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chịu chung án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch cùng anh Th là không chính xác.
Nguyên đơn ông Nguyễn Như Gi phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần giá trị tài sản phải thanh toán lại cho gia đình anh Th trên phần diện tích đất được giao và số tiền thanh toán chênh lệch cho các thành viên khác trong hộ gia đình cụ D. Cụ thể: Tổng số tiền ông Gi phải thanh toán là: 130.400.000đ + 60.005.000đ = 190.405.000đ, ông Gi phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là:
5% x190.405.000đ = 9.520.000đ (làm tròn) [4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị sửa nên những người kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2019/DS-ST ngày 05/8/2019 của Tòa án nhan dân huyện Hoài Đức. Cụ thể:
Căn cứ vào Điều 256 Bộ luật Dân sự 2005;
Căn cứ vào Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm 2009 của UBTV Quốc hội khóa 12 quy định về Án phí, lệ phí Tòa án.
Căn cứ vào Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Như Gi về việc kiện yêu cầu “Đòi quyền sử dụng đất nông nghiệp” tại thửa đất số 240 và thửa đất số 243, tờ bản đồ số 321-A-IV tại Khu vực 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H đối với bị đơn là ông Nguyễn Như H, anh Nguyễn Như Th.
1.1. Buộc ông Nguyễn Như H, anh Nguyễn Như T, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, cháu Nguyễn Như Đ phải trả lại ông Nguyễn Như Gi 144 m2 đất (trong đó của Liệt sỹ Bái là 63,85m2 ) tại thửa đất số 243, tờ bản đồ số 321-A-IV tại Khu vực 1, xã Cát Quế, huyện Hoài Đức, thành phố H. Vị trí đất giao cho ông Gi được xác định từ điểm 1,2,3,4, 8,1 trên sơ đồ kèm theo bản án. Cụ thể:
Cạnh Đông giáp đường ngõ xóm dài 9,31m;
Cạnh Tây dài 9,86m giáp với thửa đất hiện ông Bách đang quản lý;
Cạnh Nam dài 15,37m giáp với thửa đất hiện gia đình anh Th đang quản lý;
Cạnh Bắc dài 14,84m giáp với thửa đất hiện ông Giới đang quản lý.
1.2. Giao ông Nguyễn Như Gi được quyền sở hữu các tài sản phát triển trên phần đất được giao gồm: 01 nhà cấp 4 (khu chăn nuôi), 01 bể lọc, sân gạch, trụ cổng và có trách nhiệm thanh toán giá trị các công trình này và công tôn nền cho anh Nguyễn Như T, chị Nguyễn Thị D số tiền là 60.005.000 đồng (Sáu mươi triệu, không trăm linh năm nghìn đồng).
1.3. Buộc ông Gi phải thanh toán trị giá 16,3 m2 đất trị giá 130.400.000đ cho: Ông R, bà X, cụ D, cụ T mỗi người số tiền là: 32.600.000đ (ba mươi hai triệu, sáu trăm ngàn đồng).
Số tiền phải thanh toán cho D, cụ T (tổng cộng là 73.200.000đ) do các thừa kế của các cụ là ông H, ông L, ông Gi, ông R, bà Ng, bà H được hưởng. Nếu ông H, ông L, ông Gi, ông R, bà Ng, bà H không tự phân chia được mà có tranh chấp nếu có yêu cầu khởi kiện sẽ giải quyết bằng vụ án khác về chia thừa kế (nếu thời hiệu khởi kiện còn).
2. Phần diện tích đất 191,7m2 giới hạn bởi các điểm (4,5,6,7,8,4) trên sơ đồ kèm theo bản án, tạm giao cho anh Nguyễn Như Th, chị Nguyễn Thị D, anh Nguyễn Như D, chị Nguyễn Thị H, chị Nguyễn Thị G, cháu Nguyễn Như Đ, và cháu Nguyễn Như Đ quản lý, sử dụng và tự mở lối đi ra ngõ đi chung.
Diện tích đất 47,4 m2 của cụ D, cụ T, ông R, bà X mà gia đình anh H, chị Y đang quản lý, sử dụng tạm giao cho anh H, chị Y sử dụng.
Giành quyền khởi kiện cho ông R, bà X và các thừa kế của cụ T, cụ D bằng vụ kiện khác đối với kỷ phần đất của ông R, bà X, cụ T, cụ D quy định theo pháp luật.
3. Anh Nguyễn Như T, chị Nguyễn Thị D được ông Nguyễn Như Gi thanh toán số tiền trị giá công tôn nền và giá trị các công trình trên đất giao cho ông Gi là 60.005.000 đồng (Sáu mươi triệu không trăm linh năm nghìn đồng).
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
4.1. Miễn án phí cho ông Nguyễn Như H.
4.2. Anh Nguyễn Như T phải nộp 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4.3. Ông Nguyễn Như Gi phải chịu 9.520.000đ (chín triệu, năm trăm hai mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Ông Gi được trừ vào 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0008490 ngày 03 tháng 10 năm 2014 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Đức, thành phố H. Ông Gi còn phải nộp số tiền là 7.020.000đ (Bảy triệu, không trăm hai mươi ngàn đồng).
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Nguyễn Như Th, chị Nguyễn Thị D, chị Nguyễn Thị H, anh Nguyễn Như D mỗi người được hoàn lại 300.000đ tiền tạm ứng án phí anh đã nộp tại BL số 0009146; 0009145; 0009144;
0009143 cùng ngày 03/9/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoài Đức, thành phố H.
6. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án tiếp tục phải chịu khoản tiền lãi trên số nợ gốc chưa thanh toán cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án dân sự; thời hiện thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp đòi quyền sử dụng đất nông nghiệp số 519/2022/DS-PT
Số hiệu: | 519/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/12/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về