TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 81/2022/DS-PT NGÀY 20/04/2022 VỀ TRANH CHẤP DO CHẬM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TRẢ TIỀN
Ngày 20 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2021/TLPT-DS ngày 13 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 07/2021/DS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện HA bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 88/2022/QĐ-PT ngày 04 tháng 04 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Tuyết M – Sinh năm: 1983; Cư trú tại: thôn Hội Nhơn, xã AH, huyện HA, tỉnh BĐ; (có mặt)
2. Bị đơn: Bà Lê Thị Thanh H– Sinh năm: 1982; Cư trú tại: thôn Hội Nhơn, xã AN, huyện HA, tỉnh BĐ; (có mặt)
3. Người kháng cáo: Bà Lê Thị Thanh H là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Lê Thị Tuyết M trình bày: Năm 2018, giữa bà và bà Lê Thị Thanh H có mua bán thức ăn gia súc với nhau. Đến năm 2019, bà H còn nợ bà 13.000.000đồng tiền mua thức ăn cho gia súc và 3.000.000đồng bà H đã mượn bà trước đó. Tổng số tiền bà H nợ bà là 16.000.000đồng. Trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết, bà Mchấp nhận trừ số tiền 1.230.000đồng bà H trả lãi vào số tiền gốc còn nợ. Vì vậy, bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà H phải trả cho bà số tiền 14.770.000đồng và tiền lãi tính từ ngày 01/5/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm.
Bị đơn bà Lê Thị Thanh H trình bày: Bà thừa nhận có mua thức ăn gia súc của bà Lê Thị Tuyết M từ năm 2018 và còn nợ bà Msố tiền 13.000.000đồng và số tiền bà vay của bà Mai trước đó là 3.000.000đồng. Hiện nay, bà còn nợ bà M số tiền là 14.770.000đồng. Nhưng vì điều kiện gia đình khó khăn nên bà xin trả dần số nợ.
Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2021/DS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện HA đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Lê Thị Thanh H phải trả cho bà Lê Thị Tuyết M số tiền 18.422.975đồng. Trong đó, tiền gốc là 14.770.000đồng, tiền lãi là 3.652.975đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 01 tháng 11 năm 2021, bị đơn bà Lê Thị Thanh Hcó đơn kháng cáo nội dung bản án sơ thẩm xin được trả dần số nợ và không tính lãi.
Tại phiên tòa, đại diện VKSND tỉnh BĐ phát biểu:
Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung: không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử xong, bị đơn bà Lê Thị Thanh Hkhông đồng ý nên làm đơn kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét xin được trả dần nợ gốc và không tính lãi.
Xét kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[1] Từ năm 2018 đến năm 2019, giữa bà Lê Thị Tuyết M và bà Lê Thị Thanh Hcó mua bán thức ăn gia súc với nhau. Đến năm 2019, bà H còn nợ bà Mai số tiền mua thức ăn gia súc là 13.000.000đồng và mượn của bà M số tiền 3.000.000đồng. Sau đó, bà H đã trả cho bà M số tiền 1.230.000đồng. Hiện nay, bà H còn nợ bà M số tiền 14.770.000đồng. Bà H, bà M đều thống nhất về số tiền nợ, số tiền đã trả và số tiền còn nợ lại là 14.770.000đồng. Do đó, việc bà M khởi kiện yêu cầu bà H trả số tiền 14.770.000đồng có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Đối với kháng cáo của bà H về việc xin được trả nợ dần và không tính lãi. Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Các bên đương sự đều thừa nhận số nợ. Tòa án cấp sơ thẩm tính lãi là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự. Tại phiên tòa, bà H xin trả nợ dần và không tính lãi nhưng bà M không đồng ý.
Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà H. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 07/2021/DS-ST ngày 25/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện HA. Tuy nhiên, hợp đồng mua bán đã hoàn thành, nguyên đơn yêu cầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa là không đúng quy định pháp luật. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xác định lại quan hệ pháp luật là tranh chấp do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, do kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bà Lê Thị Thanh H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Đại diện VKSND tỉnh BĐ phát biểu đề nghị: không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 351, 352, 357, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Thanh H. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 07/DS-ST ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện HA.
1. Buộc bà Lê Thị Thanh H phải trả cho bà Lê Thị Tuyết M số tiền là 18.422.975 đồng. Trong đó: tiền gốc là 14.770.000đồng và tiền lãi là 3.652.975đồng.
2. Về án phí dân sự:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lê Thị Thanh H phải chịu 921.148 đồng.
Bà Lê Thị Tuyết M không phải chịu án phí và được hoàn trả 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001876 ngày 12/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện HA.
2.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lê Thị Thanh H phải chịu, được khấu trừ 300.000đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0010407 ngày 04 tháng 11 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện HA.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Quyền và nghĩa vụ thi hành án:
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền số 81/2022/DS-PT
Số hiệu: | 81/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về