TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN SỐ 23/2024/DS-PT NGÀY 22/01/2024 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 88/2023/TLPT-DS ngày 03 tháng 10 năm 2023 về việc tranh chấp chia thừa kế tài sản.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 47/2023/DS-ST ngày 26 tháng 05 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 213/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Tô Thị C; cư trú tại: Thôn V, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; có mặt.
- Bị đơn:
1. Bà Tô Thị T; có mặt.
2. Ông Trần Quang C1; vắng mặt.
Cùng cư trú: Thôn D, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Văn L (L1); vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Văn N; vắng mặt.
3. Chị Nguyễn Thị G (Q); vắng mặt.
4. Chị Nguyễn Thị C2 (L2) ; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Thôn H, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.
5. Anh Nguyễn Thành C3; cư trút ại: Thôn H, xã P, huyện Đ, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.
6. Ông Tô Trung M (Văn M1); cư trú tại: Thôn L, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
7. Ông Huỳnh T1; cư trú tại: Thôn T, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định;
vắng mặt.
8. Ông Trần Tiến B; cư trú: Thôn V, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định; có mặt.
9. Bà Trần Thị L3; vắng mặt.
10. Anh Hoàng Đình D; vắng mặt.
11. Anh Hoàng Đình D1; vắng mặt.
12. Anh Hoàng Đình P; vắng mặt.
13. Chị Hoàng Thị N1; vắng mặt.
14. Anh Hoàng Đình N2; vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Thôn D, xã Â, huyện H, tỉnh Bình Định.
- Người kháng cáo: Bà Tô Thị C là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Tô Thị C trình bày:
Cha mẹ bà C là cụ Tô Trung M2 và cụ Trần Thị K có 02 người con chung tên Tô Thị T và bà là Tô Thị C. Cụ M2 có 02 người con riêng tên Tô Trung M và Tô Thị L4. Cụ K có 02 người con riêng tên Hoàng Đình L5 và Huỳnh Đình T2. Bà Tô Thị L4 (chết năm 2019), chồng bà L4 tên Nguyễn Văn L, các con bà L4 gồm có: Nguyễn Văn N, Nguyễn Thành C3, Nguyễn Thị G, Nguyễn Thị C2. Ông Hoàng Đình L5 chết, vợ ông L5 tên Trần Thị L3, các con ông L5 gồm: Hoàng Đình D, Hoàng Dình D2, Hoàng Đình P, Hoàng Thị N1, Hoàng Đình N2.
Ngày 21 tháng 11 năm 1998, cụ M2, cụ K có tổ chức họp gia đình viết một bản phân công kế nghiệp và phụng dưỡng. Sau khi họp gia đình xong, vợ chồng bà C thực hiện việc chăm sóc cho cha mẹ cũng như canh tác cùng cha mẹ trên các thửa đất mà cha mẹ đã và đang làm, riêng về 2 sào đất thổ canh giao cho 3 chị em Tô Thị T, Tô Thị C, Tô Thị L4 thì lúc này cha mẹ còn sống nên cha mẹ vẫn còn làm và bà C phụ thêm, sửa sang vườn tược nhà cửa, bắt điện sáng. Đến tháng 11 năm 1999 cụ Trần Thị K chết, tất cả anh chị em cùng lo mồ mã cho mẹ xong thì bà C vẫn ở chăm sóc cho cha bình thường. Trong thời gian này cha hay đau ốm vì tuổi già vợ chồng bà C đều thay nhau chăm sóc, đến năm 2002 (khoản tháng 4-5) cụ M2 bệnh nằm bệnh viện H, vợ chồng bà C đi nuôi, bà T chỉ đến thăm thôi vì bà T làm nghề bán thịt heo nên không ở được, nằm viện được 4-5 ngày thì bà T xuống nói để bà T trực thay cho, ông Trần Tiến B đi về khoảng 2-3 ngày sau thì ông M2 ra viện và bà T chở về nhà bà T ở H, Ân Tường T3 chăm sóc, thời gian này vợ chồng bà C vẫn lên xuống thăm nom ông M2. Ở nhà bà T được 5-6 ngày thì ông M2 bệnh nặng nên đưa về nhà ông M2 và cũng trong thời gian này bà T bắt đầu ngăn cản không cho bà C ở, bà C chỉ được về thăm nom chăm sóc cho ông M2 rồi về. Bà T không cho bà C canh tác vườn tược nữa mà bà T dành làm hết và bà T đã bán thửa đất thổ canh 2 sào mà trong biên bản đã giao cho 3 chị em làm chung. Đến tháng 6 năm 2002 ông M2 chết, kể từ thời gian này bà T cai quản sử dụng toàn bộ khối tài sản này không cho bà C lui tới canh tác gì cả. Các thửa đất trên đã giao quyền sử dụng cho cha mẹ bà C, hiện tại bà Tô Thị T cất giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên cụ M2.
Cụ M2, cụ K chết để lại tài sản gồm: 01 ngôi nhà xây cấp 4 trên thửa đất số 543, tờ bản đồ số 2. Quyền sử dụng đất thửa số 543, tờ bản đồ số 2, có diện tích (400m2 đất ở, 1.170m2 đất vườn). Thửa đất màu số hiệu 461, tờ bản đồ số 2, diện tích 275m2; Thửa đất lúa số hiệu 774, tờ bản đồ 02, diện tích 1.140m2. Tòan bộ tài sản nêu trên hiện bà Tô Thị T, ông Trần Quang C1 đang quản lý, sử dụng. Nay bà C khởi kiện đối với bà T, ông C1: Yêu cầu chia thừa kế của cụ M2, cụ K, bà C yêu cầu nhận nhà, quyền sử dụng đất, tài sản trên đất theo quy định của pháp luật.
Bị đơn bà Tô Thị T, ông Trần Quang C1 trình bày:
Về mối quan hệ gia đình cụ M2, cụ K có các người con, người cháu như bà Tô Thị C trình bày là đúng.
Cụ M2, cụ Trần Thị K được UBND huyện H cấp giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên cụ M2 gồm các thửa đất số 543, tờ bản đồ số 02, diện tích (đất ở 400m2, đất vườn 1.170m2); Thửa đất màu số 461, tờ bản đồ số 02, diện tích 275m2; thửa đất lúa số 774, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.140m2 với tổng diện tích 2.985m2, theo số Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 01542 QSDĐ/C11 ngày 06 tháng 9 năm 1997 là đúng.
Vào ngày 21 tháng 11 năm 1998 cụ M2, cụ K có tổ chức họp gia đình viết một bản phân công kế nghiệp và phụng dưỡng là đúng. Tuy nhiên, sau khi ông Tô Trung M không nhận và giao lại cho bà Tô Thị C, ông Trần Tiến B thì vợ chồng bà C, ông B không thực hiện, chỉ đến thăm, làm ruộng rồi đi về. Còn toàn bộ nội dung bà C trình bày việc nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ là không đúng. Bà T, ông C1 xác định: Tài sản của cụ M2, cụ K để lại gồm: 01 ngôi nhà cấp 4, phần nhà trên còn nhưng đang bị hư hỏng, phần nhà dưới đã hư sập, vợ chồng bà tiên đã xây dựng lại bằng tiền của bà T, ông C1. Trên đất có 01 giếng nước, 02 cây mít, toàn bộ cây, công trình trên đất thì vợ chồng bà T mới trồng, xây dựng sau này.
Về đất, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tên cụ M2 thì bà T đang quản lý, sử dụng từ khi cụ M2 chết cho đến nay không ai tranh chấp. Trước kia, bà T có thỏa thuận cắt giao đất cho bà C 07m chiều ngang mặt đường, chiều dài là giáp đất liền kề phía sau nhà bà T, nhưng bà C không nhận. Nay bà T đã sử dụng ổn định, xây dựng công trình kiên cố, trồng cây lâu năm trên 20 năm nên bà T không chấp nhận giao nhà, đất cho bà C, không đồng ý với yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của bà C.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
- Ông Tô Trung M trình bày: Đồng ý với quan hệ gia đình cụ Tô Trung M2, cụ Trần Thị K có các người con, người cháu cũng như về giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Bản phân công kế nghiệp và phụng dưỡng ngày 21 tháng 11 năm 1998 như bà C, bà T trình bày là đúng. Tuy nhiên, sau khi ông Tô Trung M không nhận và giao lại cho bà Tô Thị C, ông Trần Tiến B thì vợ chồng bà C, ông B không thực hiện, chỉ đến thăm, làm ruộng rồi đi về là đúng sự thật. Còn toàn bộ nội dung bà C trình bày việc nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ là không đúng. Ông đề nghị Tòa án giải quyết chia thừa kế tài sản theo quy định của pháp luật. Phần thừa kế ông được nhận của cha mẹ, ông M tự nguyện giao lại cho bà T.
- Ông Huỳnh Đình T2 trình bày: Phần thừa kế ông T2 được nhận của cha mẹ, ông T2 tự nguyện giao lại cho bà T.
- Ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị G, bà Nguyễn Thị C2 thống nhất trình bày: Yêu cầu chia theo pháp luật, yêu cầu được nhận tài sản.
- Ông Nguyễn Thành C3: Tòa án cấp sơ thẩm không lấy được lời khai.
- Bà Trần Thị L3, ông Nguyễn Văn N, ông Hoàng Đình D, ông Hoàng Đình D1, ông Hoàng Đình P, ông Hoàng Thị N1, ông Hoàng Đình N2 thống nhất trình bày: Từ chối không nhận thừa kế, đồng ý giao cho bà T, bà C chia theo quy định.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 47/2023/DS-ST ngày 26 tháng 05 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Tô Thị C: Chia Thừa kế tài sản của cụ Tô Trung M2, cụ Trần Thị K theo pháp luật.
1.1 Xác định: Tài sản để lại thừa kế của cụ M2, cụ K gồm:
- Ngôi nhà cấp 4, 01 giếng nước, 02 cây Mít trên thửa đất số 543, tờ bản đồ số 02.
- Quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận QSDĐ tên cụ Tô Trung M2 gồm: Thửa đất số 543, tờ bản đồ số 02, diện tích (đất ở 400m2, đất vườn 1.170m2); Thửa đất màu số 461, tờ bản đồ số 02, diện tích 275m2; Thửa đất lúa số 774, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.140m2.
Với tổng giá trị tài sản là 509.529.600 đồng.
1.2 Bà Tô Thị T, ông Trần Quang Công n, sở hữu:
+ Ngôi nhà cấp 4, 01 giếng nước, 02 cây Mít trên thửa đất số 543, tờ bản đồ số 02.
+ Quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận số 01542 QSDĐ/C11 ngày 06 tháng 9 năm 1997 đứng tên cụ Tô Trung M2 gồm: Thửa đất số 543, tờ bản đồ số 02, diện tích (đất ở 400m2, đấtvườn 1.170m2); Thửa đất màu số 461, tờ bản đồ số 02, diện tích 275m2; Thửa đất lúa số 774, tờ bản đồ số 01, diện tích 1.140m2.
Bà T, ông C1 phải trả cho bà C số tiền giá trị chia thừa kế của cụ M2, cụ K là 143.687.347 đồng. Trả cho ông L, chị G, chị L2 với số tiền của mỗi người là 12.228.710 đồng.
1.3 Bà Tô Thị C nhận tài sản chia thừa kế của cụ M2, cụ K bằng giá trị tiền do bà T, ông C1 giao cho 143.687.347 đồng.
1.4 Ông Nguyễn Văn L, chị Nguyễn Thị G, chị Nguyễn Thị C2 (L2) mỗi người nhận tài sản chia tài sản thừa kế của cụ M2, cụ K bằng giá trị tiền do bà T, ông C1 giao cho 12.228.710 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
Ngày 31tháng 05 năm 2021, nguyên đơn bà Tô Thị C kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xét xử lại Bản án sơ thẩm số: 47/2023/DS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân theo đúng quy định pháp luật.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về Tố tụng: Trong giai đoạn phúc thẩm, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận kháng cáo của bà Tô Thị C, hủy bản án sơ thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của bà Tô Thị C, HĐXX thấy rằng: Trong quá trình giải quyết vụ án, cấp sơ thẩm đã có những vi phạm như sau:
[1.1] Thứ nhất: Trong nội dung đơn khởi kiện đề ngày 20/4/2020, nguyên đơn bà Tô Thị C yêu cầu Tòa án buộc bà Tô Thị T phải trả lại khối tài sản của cha mẹ hai bà là cụ Tô Trung M2 và cụ Trần Thị K để lại. Tại Thông báo về việc thụ lý vụ án số: 28/TB-TLVA ngày 04/5/2020, cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “tranh chấp đòi lại tài sản”. Tuy nhiên, ngày 05/10/2021 cấp sơ thẩm lại ra Thông báo về việc thụ lý vụ án số: 02/TB-TLVA thay đổi quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp về thừa kế tài sản, đòi trả lại tài sản” trong khi nguyên đơn bà Tô Thị C không có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu chia thừa kế. Việc chia thừa kế là yêu cầu khởi kiện mới vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, nhưng cấp sơ thẩm không hướng dẫn bà C làm đơn khởi kiện và cho bà C nộp tạm ứng án phí, mà vẫn thụ lý giải quyết là vi phạm quy định tại Điều 195 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Hơn nữa, cấp sơ thẩm không giải quyết yêu cầu đòi lại tài sản, mà lại giải quyết yêu cầu chia thừa kế trong khi yêu cầu khởi kiện trong đơn khởi kiện là đòi lại tài sản, là vi phạm quy định tại Điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2] Thứ hai: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là chị Nguyễn Thị C2 (L2) là người khuyết tật (bị câm điếc), nhưng khi lấy lời khai của chị C2, cấp sơ thẩm không mời người phiên dịch đặc biệt để tham gia phiên dịch trong quá trình lấy lời khai người khuyết tật (bị câm điếc) là vi phạm quy định tại Điều 20 của Bộ luật tố tụng dân sự [1.3] Thứ ba, anh Nguyễn Thành C3 là người được hưởng thừa kế của cụ Tô Trung M2 và cụ Trần Thị K, nhưng cấp sơ thẩm không chia thừa kế cho anh Nguyễn Thành C3, với lý do quá trình giải quyết vụ án anh C3 không có mặt, là tước đoạt trái pháp luật quyền và lợi ích hợp pháp của anh C3. Mặt khác, cấp sơ thẩm nhận định anh C3 có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác là không đúng quy định của pháp luật, vì di sản đã được chia xong thì cho dù anh C3 có khởi kiện thì cũng không còn tài sản gì để mà chia thừa kế. Hơn nữa, trong hồ sơ vụ án không có tài liệu, chứng cứ thể hiện việc anh C3 đã được tống đạt bản án sơ thẩm nên anh C3 cũng không biết về phán quyết của Tòa án, để thực hiện quyền kháng cáo của mình.
[1.4] Thứ tư, ông Trần Quang C1 là chồng bà Tô Thị T không phải là người được hưởng thừa kế của cụ Tô Trung M2 và cụ Trần Thị K, nhưng cấp sơ thẩm lại quyết định cho ông C1 được cùng với bà T nhận, sở hữu nhà, đất, cây cối… là di sản của cụ M2, cụ K. Việc cấp sơ thẩm cho ông C1 được hưởng thừa kế của cụ M2, cụ K là trái với quy định tại Điều 651 của Bộ luật dân sự năm 2015, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng thừa kế của cụ M2, cụ K.
[1.5] Cấp sơ thẩm không tiến hành xem xét, đo đạc diện tích thực tế của các thửa đất đối với thửa đất màu số 461, tờ bản đố số 2 và thửa đất lúa số 774, tờ bản đồ số 01 mà lấy diện tích được ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để giải quyết là không đủ cơ sở để đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Hơn nữa, trong Biên bản định giá tài sản ngày 14/12/2021 không xác định giá đất ở theo giá thị trường, không định giá đất màu, đất lúa, nhưng cấp sơ thẩm vẫn giải quyết vụ án, là trái với quy định của pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
[1.6] Ngoài ra trong hồ sơ vụ án không có bài phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, là vi phạm Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Từ những phân tích trên, xét thấy cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kháng cáo của bà Tô Thị C là có căn cứ nên được HĐXXchấp nhận. Hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[3] Về án phí, chi phí tố tụng khác: Theo quy định tại khoản 3 Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, thì án phí sơ thẩm sẽ được giải quyết khi giải quyết lại vụ án, bà Tô Thị C không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Chi phí tố tụng khác sẽ được giải quyết khi giải quyết lại vụ án.
[4] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng tại cấp phúc thẩm, cũng như ý kiến về việc giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của HĐXX.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Căn cứ khoản 3 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của bà Tô Thị C. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 47/2023/DS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
2. Về án phí, chi phí tố tụng khác:
2.1. Án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng khác sẽ được giải quyết khi giải quyết lại vụ án.
2.2 Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả lại cho bà Tô Thị C 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí nộp, theo Biên lai thu số: 0010981 ngày 06/6/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.
3. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 23/2024/DS-PT về tranh chấp chia thừa kế tài sản
Số hiệu: | 23/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về