Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 38/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 38/2022/DS-PT NGÀY 27/10/2022 VỀ TRANH CHẤP CHIA THỪA KẾ

Ngày 27 tháng 10 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 9 2022 TL T-DS ng y tháng 7 năm 2022 về việc“Tranh chấp chia thừa kế”, do có kháng cáo đối với bản án số 10/2022/DS-ST ngày 14/4/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình,theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022 QĐXXPT-DS ngày 12 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

- Bà Khiếu Thị C, sinh năm 962; (con gái cụ L và cụ Đ) Nơi cư trú: Số nh 4, ngách 26 6, đường C, tổ 06, phường , quận B, th nh phố H Nội.

- Bà Khiếu Thị X, sinh năm 95 ; (con gái cụ L và cụ Đ) Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, th nh phố T, tỉnh Thái Bình.

- Bà Khiếu Thị H, sinh năm 957; (con gái cụ L và cụ Đ) Nơi cư trú: Số nh 98 9, đường T, phường , quận T, th nh phố Hồ Chí Minh;

- Người đại diện theo uỷ quyền của b Khiếu Thị H: B Khiếu Thị C, sinh năm 962, có địa chỉ như trên.

2. Bị đơn: Ông Khiếu Ngọc M, sinh năm 1960; (con trai cụ L và cụ Đ) Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, th nh phố T, tỉnh Thái Bình.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Khiếu Minh Đ, sinh năm 1948; (con trai cụ L và cụ Đ) Người đại diện theo ủy quyền: Anh Khiếu Việt D, sinh năm 1982;

Đều có nơi cư trú: Số nhà 149B, đường Y, phường Y, quận T, thành phố Hà Nội.

- Bà Khiếu Thị M, sinh năm 1951; (con gái cụ L và cụ Đ) Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Bình.

- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1960; (vợ ông M) Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, th nh phố T, tỉnh Thái Bình.

- Chị Khiếu Thị L, sinh năm 96 ; (cháu nội cụ L) - Chị Khiếu Thị Tố Q, sinh năm 1965; (cháu nội cụ L) Đều cư trú: Số 08/09, Đ, T1, phường P, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

- Chị Khiếu Thị Bích L, sinh năm 1982; (con gái ông M) Nơi cư trú: Phòng 1605, tầng 16, tòa nhà 102, KĐT V, phường L, quận H, thành phố Hà Nội.

- Anh Khiếu Hữu T, sinh năm 1984; (con trai ông M) Nơi cư trú: Phòng 7E1, tầng 7, Tòa nhà CT4, KĐT V, phường L, quận H, thành phố Hà Nội.

Người kháng cáo: B Khiếu Thị C, ông Khiếu Minh Đ, ông Khiếu Ngọc M.

(Bà C, bà X, ông M, bà L, anh D có mặt, chị L, anh T, chị L, chị Q, ông Đ, bà H, bà X vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Các nguyên đơn bà Khiếu Thị X, bà Khiếu Thị C và người đại diện theo ủy quyền của bà Khiếu Thị H là bà Khiếu Thị C trình bày:

Cụ Khiếu Hữu L v cụ Vũ Thị Đ có 07 người con đẻ gồm: Ông Khiếu Hữu Đ, ông Khiếu Thanh Q (hy sinh năm 968 chưa có vợ, con), b Khiếu Thị M, b Khiếu Thị X, bà Khiếu Thị H, ông Khiếu Hữu M và bà Khiếu Thị C.

Cụ L có 0 người con riêng l ông Khiếu Hữu R (chết năm 999), vợ ông Ry l b Nguyễn Thị B (chết năm 969), ông R v b B có hai người con đẻ là chị Khiếu Thị L v chị Khiếu Thị Tố Q.

Hai cụ đã tạo dựng được khối t i sản chung l đất ở v đất ao, tổng l 1080m2, tại 2 thửa 497 v 498, tờ bản đồ số 02, bản đồ 24 năm 99 có vị trí: hía Đông giáp rãnh nước v nh ông Lợi, phía Tây giáp đất b Tố, phía Nam giáp ngõ đi v đường 22 , phía Bắc giáp ao ông Như (cũ) v có 0 nh cấp 4 nằm trên mảnh đất đó tại thôn Đ, xã T, th nh phố T, tỉnh Thái Bình. Khoảng năm 2000 ông M đã phá dỡ v xây lên nh như hiện nay. Năm 99 , cụ L chết không để lại di chúc. Năm 200 , cụ Đ chia cho chị Khiếu Thị Tố Q (con gái) của ông R 52m2 đất ở, chị Q đã xây dựng 0 nh mái bằng l m nơi thờ cúng gia tiên, bố mẹ.

Khoảng tháng 5 2006, cụ Đ lập di chúc phân chia to n bộ t i sản của 2 cụ để lại cho anh D (con trai ông Đ) v anh T (con trai ông M) sử dụng l m nơi thờ cúng tổ tiên. Tuy nhiên, hai anh đều sống tại H Nội v có ý định sau khi cụ Đ chết sẽ bán đất v t i sản trên đất. Vì vậy, cụ Đ huỷ bản di chúc đã lập trước đó v lập bản di chúc đề ng y 05 02 2007, có nội dung tóm tắt: theo nguyện vọng của cụ L, chia cho chị Q l con gái thứ hai của ông R diện tích 50m2 đất ở trong thửa 498 v thửa 497 còn lại chia đều cho 06 người con gồm ông Đ, bà M, bà X, bà H, ông M, bà C v dặn dò các con không được l m trái nguyện vọng của cụ, không được tranh gi nh trong quá trình phân chia t i sản.

Cụ Đ chết năm 20 7 nên bản di chúc đề ng y 05/02/2007 l di chúc hợp pháp. Do anh chị em không thỏa thuận theo di chúc được nên các b khởi kiện yêu cầu To án giải quyết:

. Chia di sản thừa kế của cụ Khiếu Hữu L để lại theo pháp luật như sau:

½ của 8 5m2 đất ở : 7 người; 2 của 265m2 đất ao : 7 người.

2. Chia di sản thừa kế theo di chúc của cụ Vũ Thị Đ như sau:

+ Đất ở: (½ của 850m2 + 58m2 phần của cụ Đ được hưởng của cụ L) - 50m2 (đã chia cho chị Khiếu Thị Tố Q) còn lại : 6 người.

+ Đất ao: (½ của 265m2 + 18m2 phần của cụ Đ được hưởng của cụ L) : 6 người.

Nay các b nhất trí di sản thừa kế của cụ L, cụ Đ là diện tích đất ở l 347m2, đất vườn, ao l 708, m2, tổng l 055, m2 tại thửa đất 497, 498 (theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ v định giá t i sản ng y 06 8 202 của To án) đồng thời đề nghị chia t i sản của cụ L theo pháp luật, chia t i sản cụ Đ theo di chúc v yêu cầu được chia bằng hiện vật. Đối với nh cấp 4 hiện nay không còn nên các b không yêu cầu chia.

Tại phiên to các nguyên đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện l đề nghị Hội đồng xét xử chia di sản thừa kế theo pháp luật của cụ Đ còn là 600 m2 đất ruộng tại xứ đồng Bữa Gạo, thửa số 2 6, tờ bản đồ số 4, bản đồ Vlap, địa chỉ: Thôn Đồn Thanh, xã Tân Bình, th nh phố Thái Bình cho các đồng thừa kế bằng hiện vật. Các nguyên đơn không đồng ý chia thêm cho ông M 0 phần t i sản do có công sức quản lý t i sản thừa kế.

2. Bị đơn ông Khiếu Ngọc M trình bày:

Ông nhất trí về bố mẹ đẻ là cụ L và cụ Đ, con chung con riêng của hai cụ như các nguyên đơn trình b y l đúng, ông xác định hai cụ có tài sản chung là 01 mảnh đất ở và 01 mảnh đất ao có tổng diện tích khoảng 1080m2, địa chỉ:

Thôn Đ, xã T, th nh phố T, tỉnh Thái Bình. Nguồn gốc hai mảnh đất trên là do hai cụ được thừa kế từ ông, cha. Cụ Đ đã cho chị Q 50m2 đất ở trong tổng diện tích 1080m2 đất, chị Q đã xây nh để thờ cúng bố mẹ chị Q. Cụ Đ đã đồng ý cho ông phá nhà cấp 4 để xây nhà 01 tầng trên diện tích đất ở khoảng 60m2. Năm 2007, vợ chồng ông lấp toàn bộ diện tích ao. Năm 2017 cụ Đ chết. Năm 2020 gia đình ông xây tiếp lên tầng 2 và tum của ngôi nhà.

Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 06/8/2021 của Toà án nhân dân thành phố Thái Bình thể hiện hai thửa đất 497, 498 có 347m2 đất ở, 708,3m2 vườn, ao tại Thôn Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Bình thì ông xác định trong diện tích đất trên phần di sản của hai cụ là 347m2 đất ở và 236,1m2 đất vườn + ao, còn lại 472,2m2 vườn ao là của hai con ông là chị L và anh T được được Nh nước giao theo Quyết định 652/1993 và Quyết định 948 2000, sau đó được quy đổi đất ruộng về đất vườn, ao và chia theo tiêu chuẩn đất ruộng trong hộ cụ Đ gồm 3 khẩu cụ Đ, chị L, anh T. Ông Đ ý với nguyên đơn chia thừa kế của bố mẹ nhưng phải trả lại 472,2m2 đất vườn, ao chị L, anh T sau đó mới chia di sản.

Ông xác định, hai cụ chết không để lại di chúc, vì vậy di chúc ngày 05 2 2007 do các nguyên đơn cung cấp là không hợp pháp vì cụ Đ không biết chữ nên không thể ký tên, bản di chúc lại có chữ ký, chữ viết mang tên cụ Đ là không đúng, mặc dù bản di chúc có chữ ký của người làm chứng, song người này lại là anh em bên chồng của bà X nên chữ ký này không khách quan.

Ông yêu cầu chia di sản của cụ L và cụ Đ theo pháp luật và chia bằng hiện vật. Phần đất gia đình ông đã xây nh , ông đề nghị các nguyên đơn quy đổi để gia đình ông thanh toán giá trị bằng tiền nếu nh ông xây vượt quá phần tài sản ông được chia.

Tại phiên toà ông M xác định tiền công lấp ao là tiền của gia đình ông v ông Đ góp v o để san lấp. Ông không yêu cầu các thừa kế thanh toán cho ông tiền công san lấp ao, tiền xây tường bao quanh di sản thừa kế, tiền thuê người chăm sóc cụ Đ.

3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

- Bà Khiếu Thị M trình b y: B đồng ý với ý kiến của các nguyên đơn trình bày. Trong trường hợp nguyên đơn v bị đơn không thoả thuận được thì b đề nghị Toà án giải quyết theo pháp luật.

- Bà Nguyễn Thị L trình b y: B đồng ý với ý kiến của ông M trình bày, bà không trình bày bổ sung.

- Chị Khiếu Thị Bích L và anh Khiếu Hữu T trình bày: Anh, chị l con đẻ của ông M và bà L. Năm 99 cụ Đ, anh T, chị L được UBND xã Tân Bình giao đất trồng lúa tại thôn Đồng Thanh, xã Tân Bình, huyện Vũ Thư (nay l th nh phố Thái Bình), tỉnh Thái Bình theo Quyết định số 652, đất được giao tại xứ đồng Bún. Tiêu chuẩn giao là 612 m2/khẩu.Theo quyết định số 948/2000, cụ Đ, anh T, chị L được giao đất bổ sung, 64 m2/khẩu. Tổng cộng hai lần được giao là 676 m2/khẩu. Sau này, có việc nh nước cho quy đổi từ đất trồng lúa (đất nông nghiệp) về đất ao. Hộ cụ Đ có 3 khẩu được quy đổi gồm cụ Đ, anh T, chị L. Tổng diện tích đất ao được quy đổi là 708,3m2. Trong đó, phần diện tích của bà nội là 236,1 m2 và của hai chúng tôi là 472,2m2. Hiện nay, bố mẹ anh, chị đang quản lý, sử dụng toàn diện tích đất này và phần đất di sản của cụ L và cụ Đ để lại. Nay các đồng thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ L và cụ Đ. Anh, chị yêu cầu các đồng thừa kế tách phần diện tích đất ao của anh, chị được giao là 472,2m2 trả lại cho anh, chị. Anh T, chị L không có yêu cầu yêu cầu độc lập.

4. UBND xã Tân Bình, thành phố Thái Bình cung cấp:

Về con chung và con riêng của cụ Khiếu Hữu L, cụ Vũ Thị Đ như các đương sự trình b y l đúng. Hai cụ có tài sản khi còn sống thể hiện tại bản đồ 299/1984 là thửa đất 276 có 400m2 đất ở và 265m2 đất vườn và thửa đất 271 có 535m2 đất ao, tổng diện tích 1.200m2 mang tên chủ sử dụng là cụ L và cụ Đ. Theo bản đồ 241(năm 1996) thì hai thửa đất trên có biến động giảm còn 1080m2 gồm:

545m2 đất ao tại thửa 497; 400 m2 đất ở; 135 m2 đất vườn tại thửa đất 498. Các thửa đất trên đã được UBND huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00547 ngày 05/5/1997 cho cụ Vũ Thị Đ. Do UBND huyện Vũ Thư có chủ trương mở rộng đường 22 (nay l đường 454) nên lấy ra 84 m2 đất tại thửa đất số 497 của hộ cụ Đ (nhưng không có văn bản thu hồi), cho nên thửa số 498 còn là 451 m2 (400 m2 đất ở, 51 m2 đất vườn) và cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo diện tích đất thổ này. Năm 200 cụ Đ tách cho chị Q (con gái ông R) 52m2 đất ở (diện tích cấp trong Giấy chứng nhận QSDĐ cho chị Q là 52m2 nhưng đo hiện trạng thực tế là 53m2).

Theo bản đồ Vlap năm 2013, tờ bản đồ số 12, thể hiện thửa đất số 359, cụ L, cụ Đ có 1.063,8m2 đất gồm 348m2 đất ở còn lại l đất vườn, ao.

UBND xã Tân Bình thực hiện Quyết định 652/1993 về việc dồn điền, đổi thửa của UBND tỉnh Thái Bình, giao đất ruộng cho hộ cụ Đ gồm 03 khẩu là cụ Đ, chị L, anh T, mỗi khẩu được giao 612 m2; theo Quyết định 948/2000, mỗi khẩu được giao bổ sung 64 m2. Khẩu cụ Đ được giao đất không thu phí, khẩu của chị L và anh T giao đất có thu phí. Vì dồn điền, đổi thửa nên đất ruộng được quy đổi về đất vườn v đất ao theo tỷ lệ : , nghĩa l 03 suất ruộng của cụ Đ, chị L và anh T được quy đổi từ 45m2 đất ruộng về 135 m2 đất vườn, 182,4m2 đất ruộng về 545m2 đất ao tại thửa đất 497, 498 bản đồ 241. Tuy nhiên, theo nguyên tắc thì chỉ có khẩu được giao đất không thu phí mới được chuyển đổi. Năm 2008, địa giới hành chính xã Tân Bình được chuyển về UBND thành phố Thái Bình quản lý, từ đó đến nay UBND thành phố Thái Bình cũng không quy hoạch đối với 84m2 của hộ cụ Đ nên 84m2 đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ m không phải nộp tiền sử dụng đất. Đối với đất vườn v đất ao nếu làm thủ tục theo quy định sẽ được chuyển đổi th nh đất ở vì diện tích các loại đất này không nằm trong quy hoạch tại địa phương.

Hiện nay cụ Đ có 600m2 đất nông nghiệp tại xứ đồng Bữa Gạo tại thửa 236, tờ số 04, bản đồ Vlap; chị L, anh T có tổng 1189,2m2 (tại xứ đồng Văn Chi là thửa 232; xứ Đồng Mạ là thửa 53; xứ đồng Bữa Gạo là thửa 236).

Qua từng thời kỳ, diện tích các loại đất nói trên của cụ Đ, cụ L có sự thay đổi giảm là do sai số khi đo đạc. Khi còn sống cụ L không định đoạt cho ai tài sản. Năm 2003 cụ Đ định đoạt cho chị Q 52 m2. Tài sản của hai cụ hiện nay do vợ chồng ông Khiếu Ngọc M quản lý, sử dụng. Đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

5. Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ củaTòa án và biên bản định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản ngày 6/8/2021 như sau:

Hai thửa đất 497, 498,tại Thôn Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Bình có tổng diện tích là 1055,3m2 (trong đó 47m2đất ở, 84m2 đất lưu không, đất vườn tạp 65m2, đất ao 559,3m2. Thửa đất hiện không có tranh chấp về mốc giới với các hộ liền kề. Đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00547QSDĐ VT ng y 05 5 997 cho chủ hộ cụ Vũ Thị Đ.

Giá trị đất ở 347 m2 x 2.000.000đ m2 = 4. 64.000.000 đồng;

Giá trị đất vườn, ao (84 m2 + 65 m2 + 559,3 m2 ) x .000.000 đồng/m2 = 2. 24.900.000 đồng;

- Tài sản trên đất do ông M, bà L xây dựng bao gồm:

+ 01 nhà mái bằng 02 tầng, 01 tum, giá trị nhà còn lại sau khi tính khấu hao là 141,53 m2 x .700.000 đồng/m2 x 52,5% = 294. 47.000 đồng.

+ 01 gian bán mái giá trị còn lại l 7. 76.000 đồng.

+ 01 quán bán hàng nhà ông M hết giá trị sử dụng, chiều dài 6,25 m, rộng 2,6 m lợp mái proxi măng, xây tường gạch, khung mái bằng thép.

+ Chuồng trại chăn nuôi xây gạch chỉ, lợp proxi măng, gi n tre luồng, diện tích 16,25 m2, giá trị còn lại 80% l 8.200.000 đồng.

+ Một số cây lâu năm trên đất không có giá trị, bị đơn không yêu cầu kiểm đếm, không yêu cầu định giá.

- Phần nh cũ của cụ Đ hết giá trị sử dụng nên các đương sự không yêu cầu định giá.

- Phần diện tích đất cụ Đ tặng cho chị Q, chị Q đã xây nh mái bằng 01 tầng.

- Đất ruộng tại sứ đồng Bữa Gạo = 600 m2, thửa số 236, tờ bản đồ số 4, bản đồ Vlap 20 , địa chỉ: Thôn Đồng Thanh, xã Tân Bình. Theo quy định tại tỉnh Thái Bình đất ruộng l 42.000 đồng/m2. Giá trị 600m2 l 25.200.000 đồng.

Tổng giá trị di sản: Đất ở + đất vườn, ao + đất ruộng = 6.254.100.000 đồng.

Bản án số 10/2022/DS-STngày14/4/2022của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đã quyết định:

1. Điều luật áp dụng:Căn cứ các Điều: 609, 6 4, 6 7, 6 8, 6 0, 62 , 627, 628, 6 0, 6 , 64 , 65 , 659, 660 của Bộ luật Dân sự.Các Điều 26, 39, 147,220 và 227của Bộ luật Tố tụng dân sự.Điểm đ khoản Điều 2; điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý v sử dụng án phí v lệ phí Tòa án.

2. Về nội dung:

2. . Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về Tranh chấp thừa kế t i sản của các nguyên đơn:

2.1.1. Bà Khiếu Thị C, sinh năm 1962;

Nơi cư trú: Số nhà 14, ngách 26/36, đường C, tổ 06, phường P, quận B, thành phố Hà Nội.

2.1.2. Bà Khiếu Thị X, sinh năm 1953;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, thành phố T, tỉnh Thái Bình;

2.1.3. Bà Khiếu Thị H, sinh năm 1957;

Nơi cư trú: Số nhà 198/19, đường T, phường P, quận T, thành phố Hồ Chí Minh;

- Người đại diện theo uỷ quyền của bà Khiếu Thị H: Bà Khiếu Thị C, sinh năm 1962;

Nơi cư trú: Số nhà 14, ngách 26/36, đường C, tổ 06, phường P, quận B, thành phố Hà Nội.

2.2.Chia di sản của cụ Khiếu Hữu L v cụ Vũ Thị Đ do ông Khiếu Ngọc M v b Nguyễn Thị L đang quản lý cho các thừa kế, di sản gồm: Diện tích 47m2 đất thổ cư; diện tích 708, m2 đất vườn ao, (theo bản đồ 299 985, tờ bản đồ số 04 l các thửa đất số 276 v số 27 ; (theo bản đồ 24 996 l các thửa đất số 497, số 498; theo bản đồ Vlap 20 , tờ bản đồ số 2 l thừa đất số 59); địa chỉ các thửa đất: Thôn Đ, xã T, th nh phố T, tỉnh Thái Bình, giá trị 25.200.000 đồng, cụ thể như sau:

2.2.1. Chia cho ông Khiếu Minh Đ diện tích 75, m2 đất thổ cư giá trị 90 .200.000 đồng; 4 ,6m2 đất vườn, ao giá trị 24.800.000 đồng. Đất có tứ cận: hía Đông d i 6,2 m + ,90 m + 8,69m + 4,48m + 2, 5 m giáp nh chị Khiếu Thị Tố Q v đất thuỷ lợi của UBND xã Tân Bình, phía Tây dài 13,18m + 6,32m giáp lối đi chung mở 74, m2 và 15,5m2 , phía Nam dài 2,25m + 4,90 m giáp đường giao thông, phía Bắc d i 6, 5m giáp đất chia cho b Khiếu Thị M;

2.2.2. Chia cho b Khiếu Thị M diện tích 22,2 m2 đất thổ cư giá trị .466.400.000 đồng; 7 ,8 m2 đất vườn, ao giá trị 2 5.400.000 đồng. Đất có tứ cận: hía Đông d i 6,55 m + ,87 m + 6,80 m + ,7 m, giáp đất thuỷ lợi của UBND xã Tân Bình, phía Tây d i 6,44 + 6,54 m + ,95 m giáp lối đi chung mở 74, m2 và 57,5 m2, phía Nam d i 4,45 m + 6, 5 m giáp đất chia cho ông Khiếu Minh Đ, phía Bắc d i , 7 m giáp chia cho b Khiếu Thị X;

2.2. . Chia cho b Khiếu Thị X, diện tích 77 m2 đất vườn, ao giá trị 5 .000.000 đồng. Đất có tứ cận: hía Đông d i 4, 5 m + ,08 m + 6,64 m giáp đất thuỷ lợi của UBND xã Tân Bình, phía Tây d i 6,82 m giáp lối đi chung mở 57,5 m2, phía Nam d i , 7 m giáp đất chia cho b Khiếu Thị M, phía Bắc d i ,05 m giáp đất ông Hưng, ông To n;

2.2.4. Chia cho b Khiếu Thị H, diện tích 59 m2 đất vườn, ao giá trị 477.000.000 đồng. Đất có tứ cận: hía Đông d i 2, 8 m giáp lối đi chung mở 57,5 m2, phía Tây dài 8,99 m giáp đất b Khiếu Thị M, phía Nam d i 5, 7 m giáp đất chia cho b Khiếu Thị C, phía Bắc d i 5, 6 m giáp đất nh ông Hưng, ông To n;

2.2.5. Chia cho ông Khiếu Ngọc M: Diện tích 75,4 m2 đất thổ cư giá trị 904.800.000 đồng; 5,7 m2 đất vườn, ao giá trị 47. 00.000 đồng. Đất có tứ cận: hía Đông d i ,57 m + ,56 m + 2,97 m giáp lối đi chung mở 5,5 m2 và 74,3 m2, phía Tây dài 7,53 m + 1,25 m + 9,18 m + , 4 m giáp đất b Khiếu Thị M, phía Nam d i 4,84 m giáp đường giao thông, phía Bắc d i 5,87 m giáp lối đi chung mở 74,3 m2 v đất chia cho b Khiếu Thị C;

2.2.6. Chia cho b Khiếu Thị C, diện tích 59 m2 đất vườn, ao giá trị 477.000.000 đồng. Đất có tứ cận: hía Đông d i ,40 m giáp lối đi chung mở 57,5 m2, phía Tây dài 7,29 m + 2,56 m giáp đất b Khiếu Thị M, phía Nam dài 14,36 m giáp đất b Khiếu Thị M v giáp phần đất chia cho ông Khiếu Ngọc M, phía Bắc d i 5, 7 m giáp đất chia cho b Khiếu Thị H.

(Chia di sản có sơ đồ kèm theo).

2.2.7. Công nhận sự tự nguyện của b Khiếu Thị X, b Khiếu Thị C, bà Khiếu Thị H - người đại diện theo uỷ quyền của bà H l b Khiếu Thị C: B Khiếu Thị C, b Khiếu Thị M, ông Khiếu Ngọc M cho chị Khiếu Thị Tố Q diện tích 9, m2 đất vườn, ao tiếp giáp cửa ra v o nh chị Q về phía Nam giáp đường giao thông.

Các ông, b không yêu cầu chị Q thanh toán tiền. Chia cho chị Q sử dụng ,87 m2 đất vườn, ao tiếp giáp cửa ra v o nh chị Q về phía Nam giáp đường giao thông. Buộc chị Q có nghĩa vụ thanh toán cho ông Khiếu Minh Đ số tiền 5.600.000 đồng của ,87 m2 đất vườn, ao. Trên phần đất ,2 m2 chị Q đã xây tường 0, lợp tôn bán mái giá trị 7. 76.000 đồng.(Có sơ đồ kèm theo).

2.2.8. Buộc b Khiếu Thị M có nghĩa vụ thanh toán tiền chênh lệch t i sản cho: B Khiếu Thị H, b Khiếu Thị C mỗi người số tiền 0.460.000 đồng; ông Khiếu Ngọc M số tiền 55.504.000 đồng; b Khiếu Thị X số tiền 57.9 6.000 đồng;

2.2.9. Buộc ông Khiếu Minh Đ có nghĩa vụ thanh toán tiền chênh lệch t i sản cho b Khiếu Thị X 2 8.540.000 đồng.

2.2. 0. Buộc chị Khiếu Thị Tố Q thanh toán cho ông Khiếu Minh Đ số tiền 5.600.000 đồng.

2.3. Chia di sản của cụ Vũ Thị Đ do ông Khiếu Ngọc M v b Nguyễn Thị L đang quản lý l 600 m2 đất ruộng tại xứ đồng Bữa Gạo, số thửa 2 6, tờ bản đồ số 04, bản đồ Vlap năm 20 , địa chỉ thửa đất: Thôn Đồng Thanh, xã Tân Bình, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, giá trị 25.200.000 đồng cho ông Khiếu Ngọc M sử dụng.

Buộc ông Khiếu Ngọc M có nghĩa vụ thanh toán tiền di sản cho ông Khiếu Minh Đ, b Khiếu Thị M, b Khiếu Thị X, b Khiếu Thị H, b Khiếu Thị C mỗi người số tiền .600.000 đồng.

Đối trừ tiền t i sản do ông M phải thanh toán cho bà M, bà M còn phải thanh toán tiền chênh lệch t i sản cho ông M l 5 .904.000 đồng.

Các thừa kế được chia di sản có tổng giá trị: Ông Khiếu Minh Đ = 8 .060.000 đồng; ông Khiếu Ngọc M = . 2.200.000 đồng, (bao gồm cả phần t i sản trích trả cho ông khiếu Ngọc M v b Nguyễn Thị L); b Khiếu Thị M = 807.460.000 đồng; b Khiếu Thị X = 807.460.000 đồng; b Khiếu Thị H = 807.460.000 đồng; b Khiếu Thị C = 807.460.000 đồng.

2.4. Buộc ông Khiếu Ngọc M, b Nguyễn Thị L tháo rỡ các công trình l chuồng, trại chăn nuôi có giá trị 8.200.000 đồng v cây trồng trên di sản để giao đất cho các thừa kế.

2.5. Kể từ ng y bản án có hiệu lực pháp luật, người phải thi h nh án không thi hành án thì người được thi h nh án l m đơn yêu cầu thi h nh án gửi đơn đến cơ quan thi h nh án để yêu cầu thi h nh án theo quy định của pháp luật.

3.Về án phí: Buộc ông Khiếu Minh Đ phải nộp 6. 92.000 đồng (l m tròn số) án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại b Khiếu Thị X, Khiếu Thị H, Khiếu Thị C, mỗi b 2 . 0.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm, (đã nộp tại biên lai thu số 0000 7, 0000 8, 0000 9 ng y 2 202 ).

4.Chi phí tố tụng khác: B Khiếu Thị X, b Khiếu Thị H, b Khiếu Thị C, ông Khiếu Minh Đ, b Khiếu Thị M, mỗi người phải nộp 1.96 .000 đồng; ông Khiếu Ngọc M phải nộp 2.745.000 đồng. Bà X, bà H, bà C đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng số tiền 2.550.000 đồng. Buộc ông Đ ho n lại cho bà X số tiền .96 .000 đồng, buộc bà M ho n lại cho bà H số tiền .96 .000 đồng, buộc ông M ho n lại cho bà C số tiền 2.745.000 đồng.

- Ngày 04/5/2022, bà Khiếu Thị C kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, đề nghị chia đất ở v đất vườn ao bằng nhau, chia đất ruộng để bà X được trồng cấy lúa, không đồng ý tính công tôn tạo cho ông M tương đương 7 m2đất ở và 39 m2 đất vườn ao.

- Ngày 10/5/2022, ông Khiêu Minh Đ kháng cáo để xin miễn toàn bộ án phí chia tài sản m ông được hưởng.

- Ngày 26/4/2022, ông Khiếu Ngọc M kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm, đề nghị không được chia 472,2 m2 đất vườn, ao trong khuôn viên thửa đất của gia đình vì đây l diện tích đất nông nghiệp Nh nước giao cho hai con ông là Khiếu Hữu T và Khiếu Thị Bích L theo Quyết định số 652, 948.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự vẫn giữ nguyên kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận về việc giải quyết vụ án - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến: Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm, những người tiến hành tố tụng v nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh l m rõ về vị trí đất ở, vị trí đất vườn ao của hai thửa đất 497, 498. Chưa xác minh l m rõ với chính quyền địa phương về việc mâu thuẫn của chính quyền khi cung cấp diện tích đất ruộng, vị trí đất ruộng và diện quy đổi đất ruộng của hộ cụ Đ tại 3 xứ đồng Bữa gạo, xứ đồng Văn Chi v Văn Chi Mạ. Không tiến hành xem xét, thẩm định diện tích đất ruộng của cụ Đ. Không chấp nhận văn bản quy phạm pháp luật là Quyết định 652 và 948 của UBND tỉnh Thái Bình trong khi chưa có văn bản hủy bỏ, bãi bỏ 2 quyết định này. Tại giai đoạn phúc thẩm, bà C cung cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ruộng của cụ Đ là bản phô tô trong đó xác định cụ Đ còn có 98,3m2 đất ruộng tại Văn Chi Mạ là thửa số 53 và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường số 508 ngày 19/01/2022, Thông báo về việc chi trả tiền bồi thường số 33 ngày 17/02/2022 của UBND thành phố Thái Bình đối với diện tích đất tại thửa 5 đã bị thu hồi. Vì vậy, Tòa án đã thu thập tài liệu do Trung tâm quỹ đất thành phố Thành Bình cung cấp đã thu hồi 2 thửa đất số 53 và thửa số 232 tại hai xứ đồng Văn Chi v Văn Chi Mạ mang tên hộ cụ Đ, do cụ Đ chết nên số tiền bồi thường giải phóng mặt bằng đang lưu giữ tại kho bạc. Như vậy, Bản án sơ thẩm xác định còn thiếu di sản thừa kế của cụ Đ là số tiền bồi thường đất ruộng tại xứ Văn Chi Mạ. Do, tòa án cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ chưa khách quan, toàn diện, căn cứ chưa chính xác, quá trình xác minh thu thập chứng cứ còn có những thiếu sót mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự Đề nghị hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, cũng như thẩm tra tại phiên tòa v căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Chín, ông Đ, ông M gửi trong thời hạn kháng cáo quy định tại khoản Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, là kháng cáo hợp lệ, được đưa ra xem xét tại phiên tòa phúc thẩm.

Chị L, anh T, chị L, chị Q, bà X được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt họ.

[2]Xét yêu cầu kháng cáo của các đương sự:

[2. ] Đối với yêu cầu kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của nguyên đơn - bà Khiếu Thị C và bị đơn - ông Khiếu Ngọc M thì thấy:

[2.1.1] Về thẩm quyền và xác định quan hệ tranh chấp: Các nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế có địa chỉ tại xã Tân Bình, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Do đó, Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình thụ lý, giải quyết vụ án, xác định quan hệ tranh chấp thừa kế tài sản l đúng quy định tại các Điều 26, 35 và 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.1.2] Về việc bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại phiên toà sơ thẩm, các nguyên đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện chia thừa kế theo pháp luật bằng hiện vật đối với di sản là 600 m2 đất ruộng của cụ Vũ Thị Đ. Xét thấy đây là di sản của cụ Đ để lại, việc giải quyết yêu cầu này không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu bổ sung của nguyên đơn, giải quyết trong vụ án này là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2.1.3] Về thời điểm mở thừa kế và thời hiệu khởi kiện: Tại giấy chứng tử thể hiện cụ Khiếu Hữu L chết ngày 13/11/1991, cụ Vũ Thị Đ chết ngày 03/12/2017.

Ng y 05 202 , các nguyên đơn nộp đơn khởi kiện đến Tòa án. Căn cứ khoản 1 Điều 62 ; điểm d khoản Điều 688 Bộ luật Dân sự, thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ L và cụ Đ vẫn còn.

[2.1.4] Về hàng thừa kế: Lời khai của các đương sự đều thống nhất cụ L và cụ Đ có 07 người con đẻ (ông Đ, ông Q, bà M, bà X, bà H, ông M, bà C); cụ L có 0 người con riêng là ông R. Ông Q hy sinh năm 968 (chết trước hai cụ), chưa có vợ, con. Ông R chết năm 999, vợ ông R là bà B (chết năm 969, trước hai cụ), ông R và bà B có hai người con đẻ là chị L và chị Q. Chị Q đã được chia trước đó; Do đó, hàng thừa kế thứ nhất của cụ L gồm 07 người là cụ Đ, ông Đ, bà M, bà X, bà H, ông M, bà C, hàng thừa kế thế vị là chị Q và chị L. Bản án sơ thẩm xác định hàng thừa kế là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong bản án sơ thẩm chưa thể hiện lời khai của hai chị từ chối di sản của hai cụ là thiếu sót cần khắc phục.

[2.1.5] Về di sản thừa kế:

Chính quyền địa phương cung cấp: Theo bản đồ 299 và sổ mục kê -năm 1985 thể hiện cụ L là chủ sử dụng diện tích 665 m2 đất ở tại thửa đất 276 và 535 m2 đất ao tại thửa đất 271. Theo bản đồ 241 và sổ mục kê - năm 996 thể hiện cụ Đ là chủ hộ sử dụng 545 m2 đất ao tại thửa đất 497 và 535 m2 đất (400 m2 đất ở và 135 m2 đất vườn tạp) tại thửa đất 498.

Các đương sự đều thống nhất trình bày: hai thửa đất nêu trên là của cụ Khiếu Hữu L và cụ Vũ Thị Đ từ năm 985. Năm 99 cụ L chết cũng không để lại di chúc.

Ngày 05/5/1997 UBND huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00547 ghi tên cụ Đ, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xác định những diện tích đất trên là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của hai cụ để xem xét giải quyết l đúng pháp luật.

Tại Biên bản xác minh ngày 04/8/2021 (bút lục 380) thể hiện: Theo Quyết định 652 năm 99 , 0 khẩu đất nông nghiệp được chia 612m², theo Quyết định 948 năm 2000, 0 khẩu đất nông nghiệp được chia 64m². Tổng diện tích đất nông nghiệp của hộ là 2028m². Thực hiện việc quy đổi đất ruộng về đất vườn ao trong thổ cụ Đ theo tỷ lệ 1:3 (45m² ruộng = 5m² đất vườn tạp, 181m² =545m² đất ao). Đối với diện tích đất nông nghiệp được quy đổi về đất vườn ao chỉ những khẩu được giao đất không thu tiền mới được quy đổi, những trường hợp giao đất có thu tiền (nộp tiền vào Hợp tác xã để nhận giao đất) không được quy đổi về đất vườn ao. Trong phương án điều chỉnh Quyết định 948 ông M nộp tiền lệ phí tương ứng với ½ khẩu đất nông nghiệp cho Hợp tác xã Tân Bình để 02 con ông M được giao đất nên không thuộc diện được quy đổi. Tuy nhiên, cũng tại Biên bản xác minh ngày 09/02/2022 (bút lục 385, 386), thể hiện cụ Đ được giao 600m² ruộng tại thửa 236 ở xứ đồng Bữa Gạo và thực hiện việc quy đổi 75,8m² ruộng = 45m² vườn +182,4m² ao; anh T, chị L được giao 1189,2m² ruộng (thửa 232 xứ đồng Bữa gạo 1027,9m2, thửa 53 xứ đồng Mạ 98,3m², thửa 236 xứ đồng Bữa Gạo 63m²) và thực hiện việc quy đổi 150,9m² ruộng = 90m² vườn + 20,9m² ao, đối với đất ruộng tại xứ đồng Văn Chi v Mạ thể hiện là Dự án khu dân cư 6,2ha. Như vậy, cùng về đất nông nghiệp được giao theo Quyết định 652 v 948 nhưng các biên bản xác minh có sự mâu thuẫn về số liệu và diện được quy đổi đất ruộng về đất ao, vườn. Quyết định 652 và Quyết định 948 giao đất ở hai thời điểm khác nhau cho hộ gia đình 0 nhân khẩu nhưng diện tích đất được giao cho các nhân khẩu tại các xứ đồng không phù hợp với thời điểm giao đất. Mặt khác, tại lời khai của chị L, anh T thể hiện theo Quyết định 652 thì anh chị được giao ruộng tại xứ đồng Bún, tiêu chuẩn giao là 612m²/khẩu.

Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bà C giao nộp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất số BS 042727 do UBND thành phố Thái Bình cấp ngày 06/6/2014 của hộ cụ Vũ Thị Đ đối với 02 thửa đất số 53, diện tích 98,3m² và thửa đất số 236, diện tích 652,7m². Tại biên bản xác minh của Tòa án cấp phúc thẩm với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Thái Bình cung cấp: Tại Quyết định 494 QĐ-UBND ngày 19/1/2022 của UBND thành phố Thái Bình về việc thu hồi đất để thực hiện dự án trong đó thu hồi .068, m² đất của hộ cụ Vũ Thị Đ là thửa 232 và thửa 53 tại Xã Tân Bình, thành phố Thái Bình. Việc thực hiện dự án đã được triển khai về phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với 02 thửa đất trên thì số tiền hỗ trợ hiện đang tạm gửi tại kho bạc là 209.060.000đồng (bao gồm tiền hỗ trợ về đất, hỗ trợ đ o tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm và hỗ trợ khác). Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm khi xác minh diện tích đất nông nghiệp của hộ cụ Đ chưa l m rõ được những mâu thuẫn trong tài liệu xác minh, chưa l m rõ được số thửa, vị trí, diện tích đất được giao tại các xứ đồng qua các thời kỳ, cách thức giao (giao theo hộ, hay giao cho từng nhân khẩu riêng lẻ) nhưng đã xác định cụ Đ chỉ còn ruộng tại xứ đồng Bữa Gạo dẫn đến xác định thiếu di sản thừa kế đối với diện tích đất nông nghiệp của cụ Đ tại thửa số 53 xứ đồng Mạ đã bị nh nước thu hồi đền bù bằng tiền.

Mặt khác, 01 khẩu nông nghiệp được giao theo Quyết định 652 và 948 là 676m². Bản án sơ thẩm không công nhận việc quy đổi đất ruộng của anh T, chị L về đất ao của cụ Đ nhưng chấp nhận việc quy đổi 75,8m² đất ruộng của cụ Đ về 227,4 m² đất vườn ao trong thổ, xác định cụ Đ còn 600m² đất ruộng, 708,3 m² đất vườn ao trong khi địa phương đã thực hiện việc quy đổi 226 m² đất ruộng của 3 nhân khẩu về 680m² đất vườn + ao trong thổ. Như vậy, với cách xác định trên của Tòa án cấp sơ thẩm, diện tích đất nông nghiệp thực tế hiện có của cụ Đ đã nhiều hơn 480,9m² so với tiêu chuẩn được giao. Trong khi đó, diện tích đất nông nghiệp được giao theo tiêu chuẩn nhân khẩu của anh T chị L lại bị trừ v o đất nông nghiệp của cụ Đ nên bị thiếu đi. Việc đánh giá chứng cứ này của cấp sơ thẩm l chưa rõ ràng, có sự mâu thuẫn và không thống nhất, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự.

Ngoài ra, bản án chia cho ông M được sử dụng 600m² đất ruộng tại thửa 236 của cụ Đ ở xứ đồng Bữa Gạo, tuy nhiên trong thửa đất n y còn 6 m² đất ruộng của anh T, chị L nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, thẩm định, không xác định vị trí tứ cận di sản. Thửa đất ao số 497 đã được ông M san lấp th nh đất vườn. Theo bản đồ Vlap và biên bản thẩm định thể hiện 2 thửa 497 v 498 đã được gộp chung thành thửa 359. Quá trình xác minh tại cấp sơ thẩm không tiến hành xác minh tại UBND xã về vị trí đất vườn, ao và ở, nhưng bản án sơ thẩm tự xác định diện tích 74,3m2 lấy ra l m ngõ đi số trong sơ đồ chia di sản thừa kế l đất thổ l không đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự.

Xét thấy, tòa án cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ chưa khách quan, to n diện, quá trình xác minh thu thập chứng cứ còn có những thiếu sót mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được nên cần phải hủy bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[3] Do hủy án sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm đối với phần di sản là thửa đất 53 diện tích 98,3 m2 và thửa đất số 236 diện tích 652,7 m2 để cấp sơ thẩm giải quyết chia di sản thừa kế bằng hiện vật hay thanh toán tiền chênh lệch theo quy định pháp luật do vậy Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn - Bà Khiếu Thị C, bị đơn- ông Khiếu Ngọc M, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan – ông Khiếu Minh Đ về nội dung vụ việc.

[4] Do hủy bản án sơ thẩm nên các đương sự kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào khoản 3 Điều 308, khoản Điều 0 Bộ luật Tố tụng dân sự.

1. Hủy bản án sơ thẩm số 10/202/DS - ST ng y 4-4- 2022 của Tòa án nhân dân Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình để giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm để thu thập làm rõ di sản của cụ Đ l đất ruộng tại các thửa 53 và thửa 2 6 địa chỉ xã Tân Bình, Thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 20 6 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Các đương sự không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Trả lại ông Khiếu Minh Đ, bà Khiếu Thị C, ông Khiếu Ngọc M mỗi người số tiền 300.000đồng mà các đương sự đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm lần lượt theo các biên lai số 0000631;0000632 ng y 23/5/2022 và biên lai số 0000633 ngày 26/5/2022 tại Chi cục thi h nh án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

3. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 27/10/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp chia thừa kế số 38/2022/DS-PT

Số hiệu:38/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;