Bản án về tranh chấp chia tài sản và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi ly hôn số 19/2024/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2024/HNGĐ-PT NGÀY 25/01/2024 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG SAU KHI LY HÔN

Vào ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 71/2023/TLPT-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp chia tài sản và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi ly hôn”.

Do Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 1441/2023/HNGĐ-ST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5555/2023/QĐPT-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17085/2023/QĐPT-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Quốc D, sinh năm 1973 (vắng mặt).

Địa chỉ: A B Đ, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1977 (có mặt).

Địa chỉ: A Đường C, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Đức H, Luật sư Văn phòng luật sư Đức H và cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (vắng mặt).

Địa chỉ: G Đ, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1953 (có mặt) Địa chỉ: Số G CT8A, khu đô thị Đ, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền của bà H1: Ông Nguyễn Minh A, sinh năm 1975 (Giấy ủy quyền ngày 21/10/2022) (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ A, phường L, quận Đ, Thành phố Hà Nội.

- Ông Nguyễn Đình C (chết 10/12/2022) Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông C:

- Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1953 (có mặt) Địa chỉ: số G CT8A, khu đô thị Đ, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ: A Đường C, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Ông Nguyễn Đình D1, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: Xóm T, xã T, huyện T, Thành phố Hà Nội.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà H1 và bà T: Ông Nguyễn Thanh H2, Luật sư của Công ty L, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H (vắng mặt).

Địa chỉ: B C, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Do có kháng cáo của bị đơn - bà Nguyễn Thị Hoài T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 24/5/2018, đơn khởi kiện bổ sung ngày 28/12/2018, nguyên đơn - ông Nguyễn Quốc D trình bày:

Nhà và đất thuộc thửa số 555, tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại địa chỉ A Đường C, khu phố B, phường B, Quận B (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH03930 do Ủy ban nhân dân Quận B cấp ngày 02/6/2016 (sau đây gọi tắt là nhà, đất 1A) là tài sản chung của ông Nguyễn Quốc D và bà Nguyễn Thị Hoài T. Ông D yêu cầu phân chia nhà, đất 1A theo hiện vật, chia đôi (tỷ lệ 1/2) căn nhà theo vách xây dựng đã có sẵn. Trường hợp bà T không đồng ý chia căn nhà thì yêu cầu Tòa án định giá tài sản để phân chia theo trị giá, mỗi bên thụ hưởng 50% giá trị tài sản. Bên nào lấy căn nhà thì phải trả cho phía còn lại bằng tiền theo quy định của pháp luật. Tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 28/12/2018, ông D thay đổi yêu cầu đề nghị phân chia tài sản chung là nhà, đất 1A theo tỷ lệ đóng góp, phần của ông D được hưởng là 70% giá trị tài sản và bà T được hưởng 30% giá trị tài sản.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông D trình bày xác định yêu cầu cụ thể như sau:

- Xác nhận nhà, đất 1A là tài sản chung của vợ chồng sau ly hôn chưa được phân chia, đề nghị chia tài sản chung là nhà, đất 1A theo tỷ lệ mỗi bên được hưởng 50% giá trị tài sản, ai nhận nhà, đất 1A sẽ trả lại tiền cho phía bên kia, nếu không thì phát mãi chia theo tỷ lệ như trên;

- Xác nhận nghĩa vụ chung của vợ chồng là khoản nợ tiền, vàng vay trước đây chưa trả cho ông C, bà H1;

- Ông D cam kết chịu 1/2 án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng giải quyết vụ án dân sự.

Tại các bản tự khai và quá trình giải quyết, bị đơn - bà Nguyễn Thị Hoài T trình bày:

Bà T thừa nhận nhà, đất 1A là tài chung của vợ chồng. Bà T đề nghị phân chia tài sản chung theo các phương án sau:

Phương án 1: Để toàn bộ nhà, đất 1A cho mẹ con bà T; Ông D không nhận phần trị giá nào.

Phương án 2: Bà T nhận 96m2 nhà, đất 1A và 01 chiếc xe ô tô; Ông D nhận 50m2 nhà, đất 1A theo thỏa thuận trước đây.

Phương án 3: Bà T nhận 2/3 giá trị nhà, đất 1A và sẽ lấy nhà, bà T trả lại cho ông D 1/3 trị giá nhà, đất 1A bằng tiền đồng Việt Nam.

Bà T đề nghị giải quyết phần nợ chung của vợ chồng là các khoản vay mượn tiền, vàng của ông C và bà H1 theo biên bản xác nhận nợ lập ngày 17/6/2009.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T rút một phần ý kiến đã trình bày trước đây, cụ thể:

- Xác nhận nhà, đất 1A là tài sản chung của vợ chồng, đề nghị phân chia theo tỷ lệ bà T được hưởng 70% giá trị; ông D được hưởng 30% giá trị. Bà T đề nghị được quyền nhận nhà, đất 1A, bà T sẽ trả lại cho ông D bằng tiền đồng Việt Nam tương ứng với 30% giá trị nhà, đất 1A. Trường hợp bà T không trả tiền hoặc trả không đầy đủ tiền cho ông D thì bà T đồng ý thi hành án, kể cả phát mãi căn nhà theo quy định pháp luật đề thi hành án và thực hiện phân chia tài sản chung cho bà T, cho ông D và thi hành trả các khoản nợ chung cho bà H1, bà T, ông Nguyễn Đình D1.

- Xác nhận nghĩa vụ chung của vợ chồng là khoản nợ tiền, vàng vay trước đây chưa trả cho ông C, bà H1, nay quy đổi thành 22,73 lượng vàng SJC. Bà T đồng ý trả 1/2 khoản nợ chung là 11,365 lượng vàng SJC;

- Bà T xác định không có yêu cầu phản tố gì trong vụ án, không tranh chấp tài sản chung nào khác, - Bà T cam kết chịu 1/2 án phí dân sự sơ thẩm và các chi phí tố tụng giải quyết vụ án dân sự.

* Theo đơn yêu cầu độc lập ngày 09/5/2020 và bản khai, người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị H1 và ông Nguyễn Đình C (chết ngày 10/12/2022) trình bày:

Trong thời gian ông D1 và bà T chung sống vợ chồng (chưa ly hôn), từ năm 2000 đến năm 2012, vợ chồng ông C, bà H1 đã nhiều lần cho ông D1 và bà T vay tiền, vàng. Cụ thể như sau:

Năm 2000 cho vay 10.000.000 đồng; Năm 2001 cho vay 30.000.000 đồng để mua thửa đất 1A với thỏa thuận rằng: ông D1 và bà T sẽ chia lại một phần diện tích đất mua được là 67m2; Năm 2007 cho vay 70.000.000 đồng; Năm 2009 cho vay 40.000.000 đồng; Năm 2010 cho vay 1 cây vàng SJC; Năm 2012 cho vay 30.000.000 đồng và 100.000.000 đồng.

Nay ông C bà H1 yêu cầu: Đối với các khoản nợ phát sinh từ năm 2000, 2001: Yêu cầu ông D1 và bà T phải trả bằng diện tích đất 67m2 của nhà, đất 1A;

- Đối với các khoản nợ phát sinh từ năm 2007, 2009, 2010, 2012: Yêu cầu ông D1 và bà T phải trả các khoản vay quy ra vàng SJC theo thời giá lúc vay (năm 2007 vay 70.000.000 đồng, tương đương 5,46 lượng SJC; Năm 2009 vay 40.000.000 đồng, tương đương 02 lượng SJC; Năm 2010 vay 01 lượng SJC; Năm 2012 vay 30.000.000 đồng, tương đương 0,8 lượng SJC; 100.000.000 đồng, tương đương 2,7 lượng SJC). Tổng cộng 11,96 lượng vàng SJC và tiền lãi.

Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp cho bà H1 xác định lại các yêu cầu độc lập như sau:

- Yêu cầu ông D1 và bà T có trách nhiệm liên đới trả số nợ tương ứng với 22,73 lượng vàng SJC. Cụ thể ông D1 phải trả 11,365 lượng vàng SJC; bà T phải trả 11,365 lượng vàng SJC. Thanh toán bằng tiền đồng Việt Nam tại thời điểm trả nợ.

- Các yêu cầu độc lập khác được trình bày tại Đơn yêu cầu lập ngày 09/5/2020 và các Bản tự khai nay xin rút lại, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu đã rút.

* Người đại diện theo ủy quyền của bà H1 (tư cách người kế thừa quyn, nghĩa vụ t tụng của ông C) trình bày:

Thống nhất với các yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị H1 trình bày.

* Bà Nguyễn Thị Hoài T (người kế thừa quyền, nghĩa vụ t tụng của ông C) trình bày:

Thống nhất với các yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị H1.

* Theo Đơn xin không tham gia phiên tòa ngày 28/12/2022, ông Nguyễn Đình D1 (người kế thừa quyn, nghĩa vụ t tụng của ông C) trình bày:

Cha tôi là ông Nguyễn Đình C đã từ trần ngày 10/12/2022, không kịp làm thừa kế và ông C có để lại cho tôi số tiền mà trước đó cha mẹ tôi có cho ông Dl1, bà T vay đề mua nhà đất. Nay cha tồi mất không để lại di chúc và tôi là con ruột trong gia đình nên được quyền thừa hưởng theo luật thừa kế. Tuy nhiên, do tồi ở Hà Nội và đang đi làm nên không tham phiên tòa được, tôi xin vắng mặt. Tôi đồng ý giao lại cho ông Nguyễn Minh A là người đại diện theo ủy quyền cho bà H1 trình bày yêu cầu của tôi tại phiên tòa.

Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 1441/2023/HNGĐ-ST ngày: 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định:

“- Căn cứ vào khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 36 và điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 244; Điều 227; Điều 147, Điều 273, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 33, Điều 37 và điểm b khoản 2 Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 463, Điều 466 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự;

- Căn cứ vào Điều 2, Điều 6, Điều 7, Điều 9, Điều 30 của Luật thi hành án dân sự;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:

Xác định căn nhà và đất tại thửa số 555, tờ bản đồ số 28 tọa lạc địa chỉ: A Đường C, Khu phố B, phường B, Quận B (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH0393 do Ủy ban nhân dân Quận B cấp ngày 02/6/2016 là tài sản chung hợp nhất của ông Nguyễn Quốc D với bà Nguyễn Thị Hoài T được phân chia như sau:

- Ông Nguyễn Quốc D được chia và thụ hưởng 40% giá trị tài sản (nhà và đất), số tiền cụ thể được xác định theo kết quả thẩm định giá tài sản tại thời điểm thi hành án.

- Bà Nguyễn Thị Hoài T được chia và thụ hưởng 60% giá trị tài sản (nhà và đất), số tiền cụ thể được xác định theo kết quả thẩm định giá tài sản tại thời điểm thi hành án.

Bà Nguyễn Thị Hoài T được quyền nhận tài sản (hiện vật là toàn bộ căn nhà và diện tích đất) và có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Quốc D trị giá 40% tài sản bằng tiền đồng Việt nam kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Sau khi bà Nguyễn Thị Hoài T thi hành án xong, trả hết số tiền cho ông Nguyễn Quốc D, thì căn cứ vào bản án có hiệu lực pháp luật bà T được quyền liên hệ các cơ quan chức năng có thẩm quyền thực hiện thủ tục đăng bộ nhà đất và sang tên đứng chủ quyền đối với toàn bộ căn nhà, đất tại thửa số 555, tờ bản đồ số 28 tọa lạc địa chỉ: A Đường C, Khu phố B, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bà Nguyễn Thị Hoài T không tự nguyện thi hành án hoặc thi hành trả tiền cho D không đầy đủ thì sẽ phát mãi tài sản là Căn nhà và đất tại thửa số 555, tờ bản đồ số 28 tọa lạc địa chỉ: A Đường C, Khu phố B, phường B, Quận B (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH0393 do Ủy ban nhân dân Quận B cấp ngày 02/6/2016 để cưỡng chế thi hành án tất cả các khoản nợ mà bà Nguyễn Thị Hoài T và ông Nguyễn Quốc D có nghĩa vụ thực hiện.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của những người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cụ thể:

Buộc ông Nguyễn Quốc D và bà Nguyễn Thị Hoài T có trách nhiệm (liên đới ngang nhau) trả toàn bộ nợ cho bà Nguyễn Thị H1 và thừa kế hợp pháp của ông Nguyễn Đình C, số nợ là 22,73 lượng SJC. Cụ thể:

Ông Nguyễn Quốc D phải trả số nợ nợ là 11,365 lượng vàng SJC;

Bà Nguyễn Thị Hoài T phải trả số nợ nợ là 11,365 lượng vàng SJC;

Trả một lần toàn bộ nợ bằng tiền đồng Việt Nam tại thời điểm thanh toán. Thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã rút: Phân chia tài sản chung theo hiện vật, chia đôi (tỷ lệ 1/2) căn nhà theo vách xây dựng đã có sẵn (theo Đon khởi kiện ngày 24/5/2018); phân chia theo tỷ lệ đóng góp, phần nguyên đơn được hưởng là 70% và bà T được hưởng 30% giá trị tài sản (theo Đơn sửa đổi yêu cầu ngày 28/12/2018).

4. Đình chỉ một phần yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan đã rút: Yêu cầu ông D và bà T phải trả cho ông C bà H1 bằng diện tích đất 67m2 quyền sử dụng đất của nhà đất tranh chấp; Yêu cầu ông D và bà T trả tiền lãi đối với các khoản nợ vay..” Ngoài ra bản án còn tuyên về trách nhiệm thi hành án, chi phí tố tụng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo.

Ngày 25/5/2023, bà T kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chia nhà, đất 1A bằng tiền theo tỷ lệ bà T được hưởng 70% giá trị, ông D được hưởng 30% giá trị hoặc chia bằng hiện vật theo tỷ lệ bà T hưởng 60% nhà, đất 1A, ông D hưởng 40% nhà, đất 1A.

Ngày 26/12/2023, bà T có đơn xác định yêu cầu kháng cáo: Bà Thương yêu cầu chia nhà, đất 1A theo hiện vật, bà T hưởng 70% nhà, đất 1A, ông D được 30% nhà, đất 1A, ngoài ra không kháng cáo các quyết định khác của bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

* Nguyên đơn - ông Nguyễn Quốc D vắng mặt.

* Bị đơn - bà Nguyễn Thị Hoài T trình bày:

Bà T thay đổi nội dung kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm phân chia nhà, đất 1A theo tỷ lệ bà T được hưởng 70% giá trị, ông D được hưởng 30% giá trị, bà T sẽ nhận toàn bộ nhà, đất 1A và sẽ trả lại cho ông D 30% giá trị nhà, đất 1A bằng tiền.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị H1 trình bày: Đề nghị giữ nguyên phần quyết định đã xét xử buộc ông D và bà T trả nợ vay cho vợ chồng bà.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Đình D1 vắng mặt.

* Đại diện Viện kiếm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về thời hạn kháng cáo: Kháng cáo của bà T làm đúng thời hạn luật định.

- Về nội dung kháng cáo: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ, xét thấy nhà, đất 1A là tài sản chung của ông D1 và bà T. Tòa án cấp sơ thẩm khi phân chia đã xem xét đến công sức của bà T đã gìn giữ tôn tạo làm tăng giá trị nhà, đất 1A và đang là người trực tiếp sử dụng nhà, đất 1A, nên đã quyết định phân chia cho bà T được hưởng 60% giá trị, ông D1 hưởng 40% giá trị, giao toàn bộ nhà, đất 1A cho bà T và bà T có trách nhiệm hoàn lại 40% giá trị cho ông D1 là có căn cứ đúng pháp luật, nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bà T. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận kháng cáo của bà T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các phần quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

- Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà T phải chịu theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Hoài T làm trong thời hạn luật định.

Ông Nguyễn Quốc D, ông Nguyễn Đình D1 có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Minh A và các luật sư Trần Đức H, Nguyễn Thanh H2 đã được tống đạt hợp lệ nhưng vắng mặt, nên căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Về nội dung kháng cáo:

[2.1] Ông D1 và bà T đã ly hôn năm 2012 theo Quyết định số 215/2012/QĐST-HNGĐ ngày 26/11/2012 của Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, tài sản chung tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.2] Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH03930 do Ủy ban nhân dân Quận B cấp ngày 02/6/2016 cho ông D1 và bà T, ông D1 và bà T đều xác nhận nhà, đất 1A là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nhà, đất 1A là tài sản chung của ông D1 và bà T.

[2.3] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định từ khi ly hôn cho đến nay bà T và con trai trực tiếp sinh sống tại nhà, đất 1A và có công sức quản lý, gìn giữ, làm tăng giá trị tài sản chung, nên đã căn cứ Điều 59 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 quyết định phân chia nhà, đất 1A cho bà T được hưởng 60% giá trị, ông D1 được hưởng 40% giá trị, giao toàn bộ nhà, đất 1A cho bà T quản lý, sử dụng và bà T có trách nhiệm hoàn lại số tiền tương ứng với 40% giá trị nhà, đất 1A cho ông D1 ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, là có căn cứ đúng pháp luật.

[2.4] Bà T kháng cáo và cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bà T có đóng góp nhiều hơn ông D1, tuy nhiên các phần đóng góp này đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét khi quyết định phân chia nhà, đất 1A cho bà T được hưởng 60% giá trị nhiều hơn ông D1, nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T.

Từ những nhận định trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2.5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] về án phí dân sự phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, nên bà T phải chịu án phí dân sự phúc thẩm số tiền 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 148, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 33, Điều 37, Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 463, Điều 466 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Luật thi hành án dân sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn - bà Nguyễn Thị Hoài T.

2. Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 1441/2023/HNGD-ST ngày 16 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh:

2.1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:

Xác định căn nhà và đất tại thửa số 555, tờ bản đồ số 28 tọa lạc địa chỉ: A Đường C, Khu phố B, phường B, Quận B (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH03930 do Ủy ban nhân dân Quận B cấp ngày 02/6/2016 là tài sản chung hợp nhất của ông Nguyễn Quốc D với bà Nguyễn Thị Hoài T được phân chia như sau:

- Ông Nguyễn Quốc D được chia và thụ hưởng 40% giá trị tài sản (nhà và đất), số tiền cụ thể được xác định theo kết quả thẩm định giá tài sản tại thời điểm thi hành án.

- Bà Nguyễn Thị Hoài T được chia và thụ hưởng 60% giá trị tài sản (nhà và đất), số tiền cụ thể được xác định theo kết quả thẩm định giá tài sản tại thời điểm thi hành án.

Bà Nguyễn Thị Hoài T được quyền nhận tài sản (hiện vật là toàn bộ căn nhà và diện tích đất) và có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Quốc D trị giá 40% tài sản bằng tiền đồng Việt Nam kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Sau khi bà Nguyễn Thị Hoài T thi hành án xong, trả hết số tiền cho ông Nguyễn Quốc D, thì căn cứ vào bản án có hiệu lực pháp luật bà T được quyền liên hệ các cơ quan chức năng có thẩm quyền thực hiện thủ tục đăng bộ nhà đất và sang tên đứng chủ quyền đối với toàn bộ căn nhà, đất tại thửa số 555, tờ bản đồ số 28 tọa lạc địa chỉ: A Đường C, Khu phố B, phường B, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bà Nguyễn Thị Hoài T không tự nguyện thi hành án hoặc thi hành trả tiền cho D không đầy đủ thì sẽ phát mãi tài sản là Căn nhà và đất tại thửa số 555, tờ bản đồ số 28 tọa lạc địa chỉ: A Đường C, Khu phố B, phường B, Quận B (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH03930 do Ủy ban nhân dân Quận B cấp ngày 02/6/2016 để cưỡng chế thi hành án tất cả các khoản nợ mà bà Nguyễn Thị Hoài T và ông Nguyễn Quốc D có nghĩa vụ thực hiện.

2.2. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của những người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cụ thể:

Buộc ông Nguyễn Quốc D và bà Nguyễn Thị Hoài T1 có trách nhiệm (liên đới ngang nhau) trả toàn bộ nợ cho bà Nguyễn Thị H1 và thừa kế hợp pháp của ông Nguyễn Đình C, số nợ là 22,73 lượng SJC. Cụ thể:

Ông Nguyễn Quốc D phải trả số nợ là 11,365 lượng vàng SJC;

Bà Nguyễn Thị Hoài T phải trả số nợ là 11,365 lượng vàng SJC;

Trả một lần toàn bộ nợ bằng tiền đồng Việt Nam tại thời điểm thanh toán. Thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

2.3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã rút: Phân chia tài sản chung theo hiện vật, chia đôi (tỷ lệ 1/2) căn nhà theo vách xây dựng đã có sẵn (theo Đơn khởi kiện ngày 24/5/2018); phân chia theo tỷ lệ đóng góp, phần nguyên đơn được hưởng là 70% và bà T được hưởng 30% giá trị tài sản (theo Đơn sửa đổi yêu cầu ngày 28/12/2018).

2.4. Đình chỉ một phần yêu cầu độc lập của người có quyền, nghĩa vụ liên quan đã rút: Yêu cầu ông D và bà T phải trả cho ông C bà H1 bằng diện tích đất 67m2 quyền sử dụng đất của nhà đất tranh chấp; Yêu cầu ông D và bà T trả tiền lãi đối với các khoản nợ vay.

2.5. Trách nhiệm thi hành án: Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án: bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị Hoài T, ông Nguyễn Đình D1 (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí:

3.1. Án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:

- Ông Nguyễn Quốc D phải chịu tổng án phí dân sự sơ thẩm là 148.395.832 đồng, được cấn trừ vào tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 20.250.000 đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2017/0015250 ngày 07/6/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 2 (nay là thành phố T). Ông Nguyễn Quốc D phải nộp thêm số tiền là 128.145.832 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bà Nguyễn Thị Hoài T phải chịu tổng án phí dân sự sơ thẩm là 151.444.204 đồng, nộp tại tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bà Nguyễn Thị H1 và người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Đình C không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

- Ông Nguyễn Quốc D phải chịu chi phí tố tụng là 16.000.000 đồng, ông D đã tạm ứng số tiền 40.000.000 đồng, chênh lệch thừa số tiền 24.000.000 đồng.

- Bà Nguyễn Thị Hoài T phải chịu chi phí tố tụng là 24.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Hoài T có trách nhiệm trả lại cho ông Nguyễn Quốc D số tiền là 24.000.000 đồng ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3.2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Bà Nguyễn Thị Hoài T phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2023/0003652 ngày 01/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị Hoài T đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp chia tài sản và nghĩa vụ của vợ chồng sau khi ly hôn số 19/2024/HNGĐ-PT

Số hiệu:19/2024/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;