TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 887/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2021 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN SAU KHI LY HÔN
Ngày 15/12/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1617/2020/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 174 / 2 0 2 1 /QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 162/2021/QĐST-HNGĐ ngày 25/11/2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị Mỹ L, sinh năm X.
Địa ch : Số X đường Y, Phường Z, quận G, Thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Phạm Thị Ngọc T, sinh năm X, địa ch : Số X đường N, Phường Z, quận B, Thành phố H.
2. Bị đơn: Ông Bùi Quốc B, sinh năm 1967.
Địa ch : Số ** đường N số cũ : *** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà T có mặt, ông Bùi Quốc B vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 11/12/2020 của nguyên đơn bà Trương Thị Mỹ L và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc T trình bày:
Bà Trương Thị Mỹ L và ông Bùi Quốc B ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 1079/2020/QĐST- HNGĐ ngày 28/8/2020, về phần tài sản chung bà và ông Bùi Quốc B tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong thời kỳ hôn nhân giữa bà và ông Bùi Quốc B thì ông bà có tạo lập được tài sản là nhà đất tọa lạc tại địa ch 891/9/22 đường Nguyễn Kiệm số cũ :
*** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, có diện tích là 40,97 m2, thuộc thửa số 508, tờ bản đồ số 40 theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số: 12864/2004, do Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/10/2004, cập nhật thay đổi ngày 01/11/2005 cho bà Trương Thị Mỹ L và ông Bùi Quốc B. Sau khi ly hôn bà và ông Bùi Quốc B không thỏa thuận được việc chia tài sản chung trên nên bà khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung trên như sau:
Yêu cầu Tòa án chia đôi nhà và đất tọa lạc tại địa ch số ** đường N số cũ : *** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhà và đất theo biên bản định giá ngày 29/4/2021 là 3.276.280.968 đồng. Bà Trương Thị Mỹ L yêu cầu nhận nhà và hoàn lại một nửa giá trị nhà đất cho ông Bùi Quốc B.
Bị đơn ông Bùi Quốc B trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa đều vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, do bị đơn vắng mặt không tham gia phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò vấp:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận căn nhà số 891/9/22 đường Nguyễn Kiệm số cũ : *** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Trương Thị Mỹ L và ông Bùi Quốc B. Giao căn nhà số số ** đường N số cũ : *** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp cho bà Trương Thị Mỹ L quản lý, sử dụng và được đăng ký quyền sở hữu riêng sau khi đã hoàn lại cho ông Bùi Quốc B số tiền 1.638.140.484 đồng tương đương ½ giá trị nhà đất trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:
[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bà Trương Thị Mỹ L khởi kiện ông Bùi Quốc B về việc chia tài sản sau khi ly hôn nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn. Đối tượng tranh chấp là nhà đất tọa lạc tại quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Nên căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự đây là loại vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về thủ tục tố tụng:
Ông Bùi Quốc B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Bùi Quốc B.
[3] Về nội dung:
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu chia đôi tài sản là nhà và đất tọa lạc tại địa ch số ** đường N số cũ : *** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở hồ sơ gốc số: 12864/2004, do Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 04/10/2004, cập nhật thay đổi ngày 01/11/2005 cho bà Trương Thị Mỹ L và ông Bùi Quốc B.
Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 1079/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2020, về phần tài sản chung bà Trương Thị Mỹ L và ông Bùi Quốc B tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Như vậy đủ cơ sở xác định nhà và đất trên là tài sản chung của bà Trương Thị Mỹ L và ông Bùi Quốc B.
Căn cứ vào Biên bản định giá ngày 29/4/2021, Hội đồng định giá định giá giá trị của nhà và đất tọa lạc tại địa ch trên là 3.276.280.968 đồng, cụ thể như sau:
+ Tổng giá trị nhà theo hiện trạng là: 58.690.968 đồng;
+ Giá trị quyền sử dụng đất được công nhận 40,97 m2) là: 3.072.750.000 đồng;
+ Giá trị quyền sử dụng đất chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính (2,13 m2): 144.840.000 đồng;
+ Tổng giá trị đất của căn nhà: 3.217.590.000 đồng. Giá trị nhà và đất: 3.276.280.968 đồng.
Bà Trương Thị Mỹ L thống nhất với giá trị nhà và đất theo Biên bản định giá. Tòa án đã thông báo kết quả định giá nhà và đất cho ông Bùi Quốc B nhưng ông Bùi Quốc B không có ý kiến gì. Tòa án xác định trị giá nhà và đất là 3.276.280.968 đồng. Bà Trương Thị Mỹ L có yêu cầu nhận nhà, bà sẽ hoàn lại cho ông Bùi Quốc B ½ trị giá căn nhà. Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông Bùi Quốc B nên chấp nhận yêu cầu được nhận nhà và hoàn lại ½ giá trị nhà đất cho ông Bùi Quốc B của bà Trương Thị Mỹ L.
[4] Về án phí: Căn cứ quy định của Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bà Trương Thị Mỹ L phải chịu án phí trên trị giá tài sản được chia là 61.144.215 đồng, nhưng được cấn trừ số tiền tạm ứng án phí bà Trương Thị Mỹ L đã nộp là 10.000.000 đồng, theo Biên lai tạm nộp án phí số AA/2019/0027671 ngày 18/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp. Bà Trương Thị Mỹ L còn phải nộp số tiền 51.144.215 đồng.
Ông Bùi Quốc B phải chịu án phí trên trị giá tài sản được chia là 61.144.215 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 235, Điều 271, Điều 273, Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Áp dụng các Điều 33, 38, 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Căn cứ khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Căn cứ khoản 1 Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội Đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Tuyên xử:
1. Công nhận căn nhà số ** đường N số cũ : *** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Trương Thị Mỹ L và ông Bùi Quốc B.
Giao căn nhà số ** đường N số cũ : *** Đường số 3 , Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Trương Thị Mỹ L quản lý, sử dụng và được đăng ký quyền sở hữu riêng sau khi đã giao cho ông Bùi Quốc B số tiền 1.638.140.484 đồng tương đương ½ giá trị nhà đất. Bà Trương Thị Mỹ L phải chịu các khoản thuế và nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật để thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu đối với căn nhà trên.
Kể từ ngày ông Bùi Quốc B có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Trương Thị Mỹ L chưa thi hành khoản tiền trên thì hàng tháng bà Trương Thị Mỹ L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành án. Lãi suất phát sinh do chậm thi hành được thực hiện theo quy định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
Thi hành tại Chi cục thi hành án có thẩm quyền.
2. Về án phí:
Bà Trương Thị Mỹ L phải chịu án phí trên trị giá tài sản được chia là 61.144.215 đồng, nhưng được cấn trừ số tiền tạm nộp án phí bà Trương Thị Mỹ L đã nộp là 10.000.000 đồng theo Biên lai tạm nộp án phí số AA/2019/0027671 ngày 18/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp. Bà Trương Thị Mỹ L còn phải nộp 51.144.215 đồng.
Ông Bùi Quốc B phải chịu án phí trên trị giá tài sản được chia là 61.144.215 đồng.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Bà Trương Thị Mỹ L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Bùi Quốc B được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn số 887/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 887/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về