Bản án về tranh chấp chia tài sản chung và tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 23/2021/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN Số 23/2021/DS-PT NGÀY 12/01/2021 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG VÀ TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 05/01/2021 và 12/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 615/DSPT ngày 19/11/2020 về việc “Tranh chấp về chia Tài sản chung và tranh chấp hợp đồng vay Tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 362/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 6347/2020/QĐXXPT-DS ngày 14/12/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1/ Bà Trương Thị Kỳ H1, sinh năm x; (có mặt)

2/ Bà Trương Thị Kim H2, sinh năm x. (có mặt)

Cùng địa chỉ: x Thiên x, Phường x, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện hợp pháp theo ủy Quyền: Bà Vy Thị L, sinh năm x. (có mặt) Địa chỉ: Nguyễn Hữu x, phường Tây x, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy Quyền ngày 19/8/2019).

Người bảo vệ Quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trịnh Công Minh, văn phòng Luật sư Trung Nguyên - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án) Địa chỉ: 29/7A đường B3, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn:

1/ Bà Trương Thị Kim H3, sinh năm x; (có mặt)

2/ Bà Trương Thị Kim H4, sinh năm x. (có mặt)

Cùng địa chỉ: x Thiên x, Phường x, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người bảo vệ Quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Nguyễn Văn Mót, Văn phòng Luật sư Vĩnh Hội - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ngân hàng x.

Địa chỉ: x Nguyễn Thị Minh Khai, Phường x, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ Minh T - Tổng giám đốc

Người đại diện hợp pháp theo ủy Quyền: Bà Nguyễn Phan Bảo N, sinh năm 1982. (có mặt) Địa chỉ: Lầu x Tòa nhà x, x-x Cách Mạng Tháng Tám, Phường x, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy Quyền ngày 03/4/2019).

2/ Ông Phạm Duy B, sinh năm x (xin vắng mặt);

3/ Ông Lê Vinh Q, sinh năm x (xin vắng mặt);

4/ Bà Lê Thị H3Ng, sinh năm x (xin vắng mặt);

5/ Bà Huỳnh Thị Kim Q1, sinh năm 1935; (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án) 6/ Ông Trương Văn H5, sinh năm x (xin vắng mặt);

7/ Ông Phạm Chí T3, sinh năm x (xin vắng mặt);

8/ Trẻ Phạm Chí T4, sinh năm x do bà Trương Thị Kim H4 là người đại diện theo pháp luật.

Cùng địa chỉ: x Thiên x, Phường x, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 28/5/2018 và quá trình tố tụng, nguyên bà Trương Thị Kỳ H1, bà Trương Thị Kim H2, có đại diện hợp pháp theo ủy Quyền là bà Vy Thị L trình bày:

Bà Trương Thị Kỳ H1, bà Trương Thị Kim H2, bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 là đồng chủ sở hữu, sử dụng nhà và đất tọa lạc tại số 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và Tài sản khác gắn liền với đất số phát hành: CA 010690, CA 010691, CA 010692 và CA 010693 , số vào sổ cấp GCN: CH01450 do Ủy ban nhân dân quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 14/5/2015. Ngày 17/9/2015, bà H1, bà H2, bà H3và bà H4 vay Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu (viết tắt là ngân hàng) số tiền 700.000.000 đồng và thế chấp Tài sản thuộc sở hữu, sử dụng chung nêu trên cho ngân hàng theo Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất, Tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai số Hợp đồng:

038790, quyển số 09 do Phòng Công chứng số 4, Thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận. Mục đích vay là để xây dựng lại căn nhà nêu trên với hiện trạng nhà như hiện nay.

Sau khi nhà được xây xong, bà H3và bà H4 có hành vi độc chiếm tầng trệt để sử dụng riêng gây khó khăn cho nguyên đơn trong việc sinh hoạt chung nên phát sinh tranh chấp. Để giải Quyết tranh chấp Tài sản chung nguyên đơn có đưa ra pH1 án phân chia Tài sản chung và khoản nợ chung của ngân hàng 700.000.000 đồng mỗi người mỗi phần bằng nhau và mỗi người tự chịu trách nhiệm với khoản nợ chung nêu trên, nhưng bà H3và bà H4 không đồng ý dẫn đến mâu thuẫn. Hiện nay, mẹ là bà Huỳnh Thị Kim Q1 và em trai là Trương Văn H5 đang ở trong căn nhà này, ông H5 bị khuyết tật từ nhỏ. Nhận thấy hành vi của bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 đã xâm phạm đến Quyền và lợi ích hợp pháp của các đồng sở hữu khác, nên nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu chia toàn bộ giá trị Tài sản thuộc sở hữu chung tại nhà đất số 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ kết quả định giá Tài sản là 4.341.000.000 đồng, sau khi trừ khoản nợ ngân hàng thì đề nghị chia thành 04 phần: Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, Trương Thị Kỳ H1 và Trương Thị Kim H2 mỗi người được hưởng một phần bằng nhau. Nguyên đơn yêu cầu được nhận nhà 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, sẽ có trách nhiệm trả cho bà H3, bà H4 giá trị Tài sản theo phần.

Bị đơn bà Trương Thị Kim H3, bà Trương Thị Kim H4 trình bày:

Nguồn gốc căn nhà 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh là của ba là ông Trương Hơn (chết ngày 26/3/2013) và mẹ là bà Huỳnh Thị Kim Q1. Vào năm 2012, ba mẹ làm hợp đồng tặng cho 03 người con gái là Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kỳ H1 và Trương Thị Kim H2 căn nhà trên để làm nơi sinh sống lo cho mẹ và em trai bị bệnh. Đến năm 2014, bà Trương Thị Kim H4 làm lại khai sinh có tên cha và mẹ nên 03 người (H3, H1, H2) lập hợp đồng tặng cho ¼ Tài sản cho bà H4 (hợp đồng số 025770 ngày 04/11/2014). Tháng 9/2015, bốn chị em thống nhất dùng căn nhà làm Tài sản thế chấp cho ngân hàng Á Châu để vay số tiền 700.000.000 đồng, mục đích để xây sửa lại căn nhà khang trang và cùng có trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng. Phía bị đơn không đồng ý giao căn nhà 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B cho nguyên đơn vì từ trước đến nay bà H2 và bà H1 không có nuôi dưỡng mẹ già và em trai, không thực hiện trả nợ đầy đủ cho ngân hàng theo hợp đồng, riêng bà H2 có góp tiền đóng cho ngân hàng khoảng 02 năm, yêu cầu bà H1 và bà H2 có trách nhiệm trả lại số tiền mà bà H3, bà H4 đã đóng gốc và lãi thay thời gian qua. Bà H3, bà H4 đề nghị Tòa án căn cứ kết quả định giá Tài sản 4.341.000.000 đồng để giải Quyết phân chia theo quy định của pháp luật, sau khi trừ khoản nợ ngân hàng còn lại được chia làm 04 phần. Phía bị đơn yêu cầu được ưu tiên nhận nhà để nuôi mẹ là bà Huỳnh Thị Kim Q1 và em trai tên Trương Văn H5 và sẽ có trách nhiệm thanh toán khoản nợ cho ngân hàng và trả giá trị Tài sản chung theo phần cho bà H2, bà H1 theo Q1 định của pháp luật.

Theo đơn yêu cầu độc lập và quá trình giải Quyết vụ án, người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng TMCP Á Châu, có đại diện hợp pháp theo ủy Quyền là bà Nguyễn Phan Bảo Ngân trình bày:

Ngân hàng ký hợp đồng cấp tín dụng số PHQ.CN.3223150915 ngày 17/9/2015 và hợp đồng cấp tín dụng số PHQ.CN.652.040116 ngày 05/01/2016 đối với các ông bà: Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B với nội dung là hợp đồng cấp tín dụng số tiền 700.000.000 đồng, mục đích vay để xây dựng, sửa chữa nhà 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh; thời hạn vay 120 tháng; lãi suất vay 9,7%/năm, thực hiện giải ngân bằng tiền mặt thông qua 05 khế ước nhận nợ. Quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay không vi phạm thời hạn thanh toán gốc và lãi. Dư nợ gốc và lãi tính đến ngày 10/8/2020 là 514.309.824 đồng. Trường hợp nguyên đơn và bị đơn H2 giải thành thì phải tất toán khoản vay cho ngân hàng theo quy định và ngân hàng sẽ hỗ trợ cho các bên. Trường hợp Tòa án xét xử, đề nghị giải Quyết buộc bà H1, H2, H3, H4, ông B có trách nhiệm thanh toán khoản vay cho ngân hàng trước khi phân chia Tài sản.

Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thị H3Ng và ông Lê Vinh Q trình bày:

Không tranh chấp gì về Quyền sở hữu Tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn, cam kết thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng theo cam kết lập ngày 17/9/2015 và có đơn xin vắng mặt.

Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Phạm Duy B trình bày:

Ông và bà Trương Thị Kim H4 là vợ chồng hợp pháp, ông vẫn liên đới cùng H4 tiếp tục thực hiện trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng theo thỏa thuận đã ký kết và có đơn xin vắng mặt.

Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phạm Chí T3, ông Trương Văn H5 và bà Huỳnh Thị Kim Q1 trình bày:

Thống nhất ý kiến với bị đơn, không có tranh chấp gì về Quyền sở hữu Tài sản giữa nguyên đơn và bị đơn, yêu cầu Tòa án giải Quyết theo quy định của pháp luật và có đơn xin vắng mặt.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Đại diện hợp pháp theo ủy Quyền của nguyên đơn bà Vy Thị L trình bày: Vẫn giữ yêu cầu khởi kiện đồng thời nguyên đơn đồng ý trả lại số tiền mà bị đơn đã trả nợ ngân hàng thay cho nguyên đơn, cụ thể bà H1 đồng ý trả cho bà H3và bà H4 số tiền 163.873.423 đồng và đồng ý cấn trừ vào phần giá trị Tài sản được nhận, nguyên đơn bà H2 đồng ý trả cho bà H3và bà H4 số tiền 119.393.245 đồng và đồng ý cấn trừ vào phần giá trị Tài sản được nhận. Nguyên đơn đồng ý trả nợ theo yêu cầu độc lập của ngân hàng.

Bị đơn bà H3, bà H4 cùng trình bày: Căn nhà là Tài sản chung của 04 người, đồng ý chia giá trị Tài sản là căn nhà 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B làm 04 phần căn cứ vào kết quả định giá là 4.341.000.000 đồng sau khi đã trả xong khoản nợ của ngân hàng. Quá trình thực hiện hợp đồng vay với ngân hàng bà H1 không có góp tiền trả ngân hàng nên yêu cầu bà H1 trả lại tiền gốc và lãi đóng thay là 163.873.423 đồng, bà H2 có góp tiền ngân hàng khoảng 2 năm thì không trả tiếp, yêu cầu bà H2 trả lại tiền gốc và lãi đóng thay là 119.393.829 đồng. Phía bị đơn yêu cầu được giữ lại căn nhà để làm nơi sinh sống, thờ cúng ông bà, nuôi mẹ già và em trai bị bệnh, sẽ có trách nhiệm thối trả tiền theo phần cho bà H1, bà H2 theo quy định. Đồng ý trả nợ theo yêu cầu của ngân hàng.

Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng TMCP Á Châu, có đại diện hợp pháp theo ủy Quyền là bà Nguyễn Phan Bảo Ngân trình bày: Ngân hàng đề nghị Tòa án giải Quyết theo quy định của pháp luật, buộc bà H1, H2, H3, H4, ông B có trách nhiệm thanh toán khoản vay cho ngân hàng tính đến ngày 29/9/2020 là 502.982.245 đồng bao gồm nợ gốc: 502.326.019 đồng, nợ lãi 656.226 đồng.

Yêu cầu ông Lê Q Vinh và bà Lê Thị H3Ng có trách nhiệm liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo giấy cam kết về việc trả nợ lập ngày 17/9/2015. Thanh toán một lần Ngy khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông bà Phạm Duy B, Lê Q Vinh, Lê Thị H3Ng, Phạm Chí T3, Trương Văn H5, Huỳnh Thị Kim Q1 có đơn xin vắng mặt.

Bản án sơ thẩm số 362/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh Quyết định:

- Căn cứ vào khoản 2, khoản 3 Điều 26; điểm a, c khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 212, Điều 219, Điều 317, Điều 318, Điều 335, Điều 463, Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào các Điều 91, Điều 95, Điều 98 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);

- Căn cứ vào khoản 7 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu:

Buộc các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B có tách nhiệm trả cho ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu số tiền tạm tính đến ngày 29/9/2020 là 502.982.245 (Năm trăm lẻ hai triệu chín trăm tám mươi hai nghìn hai trăm bốn mươi lăm) đồng. Thanh toán một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày 30/9/2020 cho đến khi thanh toán xong các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng.

Trường hợp đến hạn thanh toán mà các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì ông Lê Vinh Q và bà Lê Thị H3Ng có trách nhiệm liên đới trả nợ cho ngân hàng.

Khi các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, Ngân hàng có trách nhiệm giải chấp Tài sản bảo đảm và trả lại các giấy tờ liên quan.

Trường hợp bà Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4 không thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì ngân hàng có Quyền yêu cầu phát mãi Tài sản bảo đảm là nhà và đất tọa lạc tại số 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh để thu hồi nợ.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2.

Xác định nhà ở và Tài sản khác gắn liền với đất tại 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh là Tài sản chung thuộc đồng sở hữu của các bà: Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ đối với ngân hàng, giá trị T4 sản chung được chia làm 04 phần bằng nhau, mỗi người nhận được ¼ giá trị Tài sản, cụ thể: 4.341.000.000 đồng : 4 = 1.085.250.000 đồng, mỗi người được nhận 1 phần tương đương với số tiền 1.085.250.000 đồng (tại thời điểm tuyên án).

Bị đơn bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 có trách nhiệm thối trả cho bà Trương Thị Kỳ H1 và bà Trương Thị Kim H2 mỗi người một phần giá trị Tài sản tương đương với số tiền 1.085.250.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trương Thị Kỳ H1 đồng ý trả lại cho bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 số tiền 163.873.423 đồng và đồng ý cấn trừ vào số tiền 1.085.250.000 đồng, số tiền còn lại bà H3và bà H4 phải thanh toán cho bà Trương Thị Kỳ H1 là 921.376.577 (Chín trăm hai mươi mốt triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn năm trăm bảy mươi bảy) đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trương Thị Kim H2 đồng ý trả lại cho bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 số tiền 119.393.829 đồng và đồng ý cấn trừ vào số tiền 1.085.250.000 đồng, số tiền còn lại bà H3và bà H4 phải thanh toán cho bà Trương Thị Kim H2 là 965.856.171 (Chín trăm sáu mươi lăm triệu tám trăm năm mươi sáu nghìn một trăm bảy mươi mốt) đồng.

Thanh toán một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Giao căn nhà và đất tọa lạc tại số: 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh cho bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 quản lý, sử dụng. Sau khi bị đơn thanh toán đầy đủ cho nguyên đơn thì bị đơn có Quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm Quyền làm thủ tục đăng ký sở hữu theo quy định.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có Quyền chủ động ra Quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm Quyền.

3. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Trương Thị Kim H2 phải chịu án phí đối với T4 sản được chia là 40.785.133 (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi lăm ngàn một trăm ba mươi ba) đồng và chịu án phí đối với nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng là 6.029.822 (Sáu triệu không trăm hai mươi chín ngàn tám trăm hai mươi hai) đồng, được cấn trừ vào tạm ứng phí đã nộp là 5.181.250 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí số 0008469 ngày 12/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H2 còn phải nộp thêm số tiền 41.633.705 (bốn mươi mốt triệu sáu trăm ba mươi ba ngàn bảy trăm lẻ năm) đồng.

- Bà Trương Thị Kỳ H1 phải chịu án phí đối với T4 sản được chia là 30.785.133 (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi lăm ngàn một trăm ba mươi ba) đồng và chịu án phí đối với nghĩa vụ trả nợ ngân hàng là 6.029.822 (Sáu triệu không trăm hai mươi chín ngàn tám trăm hai mươi hai) đồng, được cấn trừ vào tạm ứng án phí đã nộp là 5.181.250 đòng theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí số 0008470 ngày 12/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H1 còn phải nộp thêm số tiền 41.633.705 (Bốn mươi mốt triệu sáu trăm .ba mươi ba ngàn bảy trăm lẻ năm) đồng.

- Bà Trương Thị Kim H3phải chịu án phí đối với T4 sản được chia là 40.785.133 (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi lăm ngàn một trăm ba mươi ba) đồng và chịu án phí đối với nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng là 6.029.822 (Sáu triệu không trăm hai mươi chín ngàn tám trăm hai mươi hai) đồng.

- Bà Trương Thị Kim H4 phải chịu án phí đối với T4 sản được chia là 40.785.133 (Bốn mươi triệu bảy trăm tám mươi lăm ngàn một trăn ba mươi ba) đồng, bà Trương THị Kim H4 và ông Phan Quý Bính cùng chịu án phí đối với nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng là 6.029.822 (Sáu triệu không trăm hai mươi chín ngàn tám trăm hai mươi hai) đồng.

Hoàn lại cho Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu số tiền 13.325.045 (Mười ba triệu ba trăm hai mươi lăm ngàn không trăm bốn mươi lăm) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0039285 ngày 16/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 1.000.000 (Một triệu) đồng, nguyên đơn đã nộp đủ và tự nguyện chịu.

- Chi phí đánh giá: Bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 có trách nhiệm hoàn trả cho bà Trương Thị Kỳ H1 và bà Trương Thị Kim H2 số tiền 6.000.000 (Sáu triệu) đồng.

Ngoài ra, Quyết định của bản án sơ thẩm còn tuyên về thủ tục thi hành án và Quyền kháng cáo.

Ngày 30/9/2020, bà Trương Thị Kỳ H1 và bà Trương Thị Kim H2 có đơn kháng cáo với nội dung:

Kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm vì bản án sơ thẩm chưa xem xét chứng cứ một cách toàn diện, đánh giá chứng cứ không khách quan dẫn đến ban hành bản án xâm hại đến Quyền và lợi ích của bị đơn. Yêu cầu Tòa án phúc thẩm xét xử lại toàn bộ vụ án nêu trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn rút một phần kháng cáo đối với yêu cầu được nhận nhà đất khi chia Tài sản chung, đồng ý để bị đơn nhận nhà đất và nguyên đơn nhận phần sở hữu bằng tiền theo kết quả đã định giá tại sơ thẩm.

Các đương sự thống nhất thừa nhận trong tổng số tiền vốn, lãi đã trả cho ngân hàng tính đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm, thì cá nhân bà Trương Thị Kim H2 đã bỏ ra để trả cho ngân hàng là 81.000.000 đồng, số còn lại là do bị đơn trả; Sau thời điểm xét xử sơ thẩm đến ngày xét xử phúc thẩm thì bị đơn có trả thêm cho ngân hàng số tiền vốn, lãi là 30.790.087 đồng. Đề nghị phúc thẩm xét đối trừ nghĩa vụ của từng người.

Ngân hàng xác định tính đến ngày xét xử phúc thẩm (ngày 05/01/2021) khoản nợ vốn và lãi yêu cầu các đương sự là khách hàng theo hợp đồng phải trả là 487.874.257 đồng (vốn: 486.150.169 đồng, lãi: 1.724.088 đồng).

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng trong quá trình giải Quyết vụ án, đã nhận xét và đề nghị như sau:

- Về tố tụng: Giai đoạn phúc thẩm, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự được đảm bảo để thực hiện các Quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung kháng cáo: Căn cứ Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa bản án sơ thẩm, ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm nhưng phải đảm bảo Quyền lợi của ngân hàng đối với Tài sản thế chấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các T4 liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn đảm bảo đúng quy định về thời hạn và thủ tục kháng cáo. Quan hệ pháp luật là yêu cầu chia Tài sản chung và tranh chấp hợp đồng vay Tài sản, thẩm Quyền giải Quyết vụ án sơ thẩm đã xác định đúng, đã đưa đủ và xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, việc thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng trong quá trình giải Quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo là nguyên đơn đã rút một phần kháng cáo nên Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 3 Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần nội dung kháng cáo này.

[3] Các nội dung tại vụ án về: Số tiền vay, thời hạn vay, mức lãi suất thỏa thuận, số tiền đã trả và thời gian trả đã được các đương sự trong vụ án thống nhất thừa nhận.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự cũng thống nhất thừa nhận trong tổng số tiền vốn, lãi đã trả cho ngân hàng tính đến trước thời điểm xét xử sơ thẩm, thì cá nhân bà Trương Thị Kim H2 đã bỏ ra để trả cho ngân hàng là 81.000.000 đồng, số còn lại là do bị đơn trả; Từ sau thời điểm xét xử sơ thẩm đến ngày xét xử phúc thẩm thì bị đơn có trả thêm cho ngân hàng số tiền vốn, lãi là 30.790.087 đồng. Đề nghị phúc thẩm xét đối trừ nghĩa vụ trả nợ của từng người.

[5] Ngân hàng xác định tính đến ngày xét xử phúc thẩm (ngày 05/01/2021): Tổng số tiền vốn và lãi khách hàng đã trả cho ngân hàng là 572.302.931 đồng; khoản nợ vốn và lãi còn lại yêu cầu các đương sự là khách hàng theo hợp đồng phải trả là 487.874.257 đồng (vốn: 486.150.169 đồng, lãi: 1.724.088 đồng).

[6] Như vậy: Tổng số tiền vốn và lãi đã trả cho ngân hàng đến ngày 05/01/2021 là 572.302.931 đồng. Chia ra nghĩa vụ theo 4 phần của bà H1, bà H2, bà H3và bà H4 (ông B liên đới với bà H4), phần nghĩa vụ của mỗi người là 143.075.733 đồng (làm tròn số).

Bà H2 đã bỏ ra trả 81.000.000 đồng nên còn phải hoàn lại cho bị đơn bà H3và bà H4 là 62.075.733 đồng.

Bà H1 phải hoàn lại cho bị đơn bà H3và bà H4 là 143.075.733 đồng.

Quyền lợi giữa bà H3và bà H4 do hai người tự tH1 lượng vì không có yêu cầu giải Quyết tại vụ án này.

[7] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự đề nghị chia Tài sản chung chia làm 4 phần, mỗi người được hưởng phần bằng nhau, bị đơn nhận Tài sản là nhà đất và trả cho nguyên đơn nhận phần sở hữu bằng tiền theo kết quả đã định giá tại sơ thẩm.

Xét thấy, Tài sản chung do các đồng sở hữu chung đã thế chấp đảm bảo khoản tiền vay tại ngân hàng, nay ngân hàng có yêu cầu xử lý Tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Phần sở hữu của từng người trong khối Tài sản chung chỉ được chia sau khi đã thanh toán toàn bộ số nợ cho ngân hàng. Việc sơ thẩm chia Tài sản chung theo kết quả định giá và buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn giá trị theo phần Ngy khi bản án có hiệu lực, trong khi Tài sản này vẫn đang thế chấp là không phù hợp. Khoản vay ngân hàng là nợ chung của các đồng sở hữu Tài sản chung, mỗi người đều cùng có nghĩa vụ đối với khoản nợ và lãi phát sinh cho đến thời điểm thanh lý hợp đồng, đi kèm việc thực hiện hợp đồng vay là hiệu lực của việc thế chấp Tài sản đảm bảo, do đó việc chia Tài sản chung là Tài sản đảm bảo như án sơ thẩm sẽ làm vô hiệu đối với nghĩa vụ của người thế chấp là nguyên đơn, đồng thời ảnh hưởng đến Quyền lợi của bị đơn.

Ý kiến đề nghị của các đương sự nêu trên được ghi nhận bằng việc ưu tiên cho bị đơn Quyền mua khi xử lý Tài sản đảm bảo và chia Tài sản chung.

[8] Số nợ còn phải trả ngân hàng tính đến ngày 05/01/2021 là 487.874.257 đồng cùng lãi phát sinh từ thời điểm sau ngày 05/01/2021. Các đương sự là bà H1, Hoa, H3, H4 mỗi người chịu nghĩa vụ bằng ¼ đối với khoản nợ ngân hàng. Trường hợp phải xử lý Tài sản thế chấp để ngân hàng thu nợ thì số tiền mà mỗi đồng sở hữu phải trả cho ngân hàng tại thời điểm thanh toán sẽ được trừ vào phần sở hữu của từng người trong khối Tài sản chung trước khi chia Tài sản chung.

[9] Trường hợp không phải xử lý Tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho ngân hàng thì Tài sản chung được chia mỗi phần sở hữu hưởng ¼ , các đương sự đã đồng ý để bị đơn được nhận nhà đất và chịu nghĩa vụ trả giá trị phần sở hữu cho nguyên đơn bằng tiền theo kết quả định giá tại sơ thẩm. Việc đối trừ nghĩa vụ đối với số tiền phải thi hành của từng người sẽ được thực hiện tại giai đoạn thi hành án.

[10] Các đương sự phải chịu án phí đối với quan hệ tranh chấp chia Tài sản chung và quan hệ tranh chấp hợp đồng vay, theo quy định tại Điểm b Khoản 7 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[11] Do các đương sự đã thống nhất xác định lại về số tiền của từng người nộp trả cho ngân hàng, phát sinh tình tiết mới như trên tại giai đoạn phúc thẩm nên cần sửa bản án sơ thẩm, như ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 2 Điều 308, Khoản 3 Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng các Điều 212, 219, 317, 318, 335, 463, 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91, 95, 98 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Sửa Bản án sơ thẩm số 362/2020/DS-ST ngày 29/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần kháng cáo của bị đơn về việc yêu cầu được nhận nhà đất tại số 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh khi chia Tài sản chung.

2. Xác định nhà ở và Tài sản khác gắn liền với đất tại 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh là Tài sản chung của các đồng sở hữu là bà: Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4; phần mỗi đồng sở hữu là ¼ Tài sản chung.

Tài sản chung nêu trên sau khi xử lý Tài sản đảm bảo: Số tiền còn lại sau khi trừ các khoản chi phí theo quy định của pháp luật và trừ khoản nợ của Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu, các đồng sở hữu là bà: Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4; mỗi người được chia theo phần là ¼.

3. Ghi nhận thỏa thuận tự nguyện của các đương sự như sau:

Bà Trương Thị Kim H2 hoàn lại cho bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 số tiền đã trả ngân hàng là 62.075.733 đồng.

Bà Trương Thị Kim H1 hoàn lại bà bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 số tiền đã trả ngân hàng là 143.075.733 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ghi nhận việc các đương sự đồng ý để bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất đến thời điểm xử lý Tài sản đảm bảo và được Quyền ưu tiên mua.

4. Buộc các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B có trách nhiệm trả cho Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu khoản nợ vay tính đến ngày 05/01/2021 là 487.874.257 đồng (vốn:

486.150.169 đồng, lãi: 1.724.088 đồng) đồng.

Kể từ ngày 05/01/2021 cho đến khi thanh toán xong, các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B còn phải chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại hợp đồng cấp tín dụng số PHQ.CN.3223150915 ngày 17/9/2015 và hợp đồng cấp tín dụng số PHQ.CN.652.040116 ngày 05/01/2016 với Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu.

Trường hợp đến hạn thanh toán mà các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì ông Lê Vinh Q và bà Lê Thị H3Ng có trách nhiệm liên đới trả nợ cho Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu.

Trường hợp bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4, ông Phạm Duy B không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán thì Ngân hàng TH1 mại Cổ phần Á Châu có Quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xử lý Tài sản bảo đảm là nhà và đất tọa lạc tại số 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh để thu hồi nợ.

5. Trường hợp không phải xử lý Tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho ngân hàng thì khi các bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4 và ông Phạm Duy B thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, Ngân hàng x có trách nhiệm giải chấp Tài sản bảo đảm và trả lại cho đương sự là khách hàng các giấy tờ liên quan theo hợp đồng thế chấp.

Bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 được nhận nhà đất tại số 100/63 Thiên Phước, Phường 9, quận Tân B, Thành phố Hồ Chí Minh và có nghĩa vụ trả phần sở hữu cho bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2 mỗi người là 1.085.250.000 đồng. Sau khi bị đơn thanh toán đầy đủ cho nguyên đơn thì bị đơn có Quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm Quyền làm thủ tục đăng ký Quyền sở hữu theo quy định.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

6. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Trương Thị Kỳ H1, Trương Thị Kim H2, Trương Thị Kim H3, Trương Thị Kim H4 mỗi người phải chịu 46.996.800 đồng.

- Số tiền tạm ứng án phí đã nộp của bà Trương Thị Kim H2 là 5.181.250 đồng và của bà Trương Thị Kỳ H1 là 5.181.250 đồng (theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí số AA/2017/0008469 và số AA/2017/0008470 cùng ngày 12/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân B) được đối trừ với án phí bà H2, bà H1 phải chịu khi thi hành án.

- Hoàn lại cho Ngân hàng x số tiền 13.325.045 (Mười ba triệu ba trăm hai mươi lăm ngàn không trăm bốn mươi lăm) đồng tạm ứng án phí đã nộp (theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0039285 ngày 16/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân B).

- Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 1.000.000 (Một triệu) đồng, nguyên đơn đã nộp đủ và tự nguyện chịu.

- Chi phí định giá: Bà Trương Thị Kim H3và bà Trương Thị Kim H4 có trách nhiệm hoàn trả cho bà Trương Thị Kỳ H1 và bà Trương Thị Kim H2 số tiền 6.000.000 (Sáu triệu) đồng.

Án phí phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu. Trả lại cho bà Trương Thị Kỳ H1 và bà Trương Thị Kim H2 mỗi người 300.000 đồng đã nộp tạm ứng (Biên lai thu AA/2019/0068501 và AA/2019/0068500 cùng ngày 19/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân B).

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp chia tài sản chung và tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 23/2021/DS-PT

Số hiệu:23/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;