TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 19/2024/DS-PT NGÀY 26/01/2024 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG, CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Trong ngày 26/01/2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 230/2023/TLPT-DS ngày 24/10/2023, về việc: “Tranh chấp chia tài sản chung, chia di sản thừa kế” do Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2023/DSST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 265/2023/QĐ-PT ngày 15/12/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 302/2023/QĐ-PT ngày 26/12/2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: cụ Triệu Thị Q, sinh năm 1931 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Ngô Đình M, sinh năm 1947 (xin vắng mặt);
Địa chỉ: thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho cụ Triệu Thị Q: bà Giáp Thị V, bà Nguyễn Thị L, đều là Luật sư thuộc Văn phòng L2 - Đoàn luật sư tỉnh B (đều xin vắng mặt) Địa chỉ: số I, đường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.
Bị đơn: ông Đoàn Đắc B, sinh năm 1966 (có mặt);
Nơi ĐKHKTT: thôn Q, xã X, huyện L, tỉnh Bắc Giang Hiện cư trú: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đoàn Thị V1, sinh năm 1954 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn B, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà V1: ông Đoàn Đắc B, sinh năm 1966 (có mắt);
2. Bà Đoàn Thị Đ, sinh năm 1957 (vắng mắt);
Địa chỉ: thôn T, xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang 3. Ông Đoàn Văn D91, sinh năm 1958 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
4. Ông Đoàn Đắc V2, sinh năm 1960 (vắng mặt);
Địa chỉ: số nhà D, thôn B, xã E, huyện C’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của ông V2: ông Đoàn Đắc B, sinh năm 1966 (có mặt);
5. Bà Đoàn Thị T, sinh năm 1964 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn T, xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
6. Bà Đoàn Thị T1, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn D, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
7. Bà Đoàn Thị C, sinh năm 1971 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
8. Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1978 (vắng mặt);
Địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
9. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1969 (vắng mặt);
Nơi ĐKHKTT: thôn Q, xã X, huyện L, tỉnh Bắc Giang Hiện cư trú: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
10. Anh Nguyễn Anh T2, sinh năm 1995 (vắng mặt);
11. Chị Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1997 (vắng mặt);
12. Chị Nguyễn Phương L1, sinh năm 2002 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
13. UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang do ông Ngô Ngọc Đ3, chức vụ: Phó trưởng phòng tài nguyên và môi trường huyện L đại diện theo ủy quyền (vắng mặt);
14. UBND xã T, huyện L do ông Nguyễn Văn H2, chức vụ: Chủ tịch đại diện (vắng mặt);
Người kháng cáo: nguyên đơn - cụ Triệu Thị Q, bị đơn - ông Đoàn Đắc B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Đoàn Thị H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2023/DSST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn - cụ Triệu Thị Q, người đại diện theo ủy quyền của cụ Q là ông Ngô Đình M trình bày: cụ Q và cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4) kết hôn năm 1953, quá trình chung sống, hai cụ sinh được 10 người con chung gồm: Đoàn Thị V1, sinh năm 1954, Đoàn Đắc Đ4, sinh năm 1956 (chết năm 1978, trước khi chết không có vợ con), Đoàn Thị Đ, sinh năm 1957, Đoàn Văn Đ1, sinh năm 1958, Đoàn Đắc V2, sinh năm 1960, Đoàn Thị T, sinh năm 1964, Đoàn Đắc B, sinh năm 1966, Đoàn Thị T1, sinh năm 1969, Đoàn Thị C, sinh năm 1971 và Đoàn Thị H, sinh năm 1978. Ngoài ra, hai cụ không có con riêng, con nuôi nào khác. Năm 1997, cụ V4 chết không để lại di chúc.
Quá trình chung sống, cụ Q và cụ V4 tạo lập được khối tài sản chung gồm: Quyền sử dụng đất (QSDĐ) tại thửa đất số 150, tờ bản đồ số 18, diện tích 300 m2 đất ở và 498 m2 đất vườn, địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số 20155 ngày 20/8/1993 mang tên Đoàn Đức V4, cùng một số tài sản trên đất. Hiện thửa đất số 150 do 03 hộ quản lý, sử dụng, cụ thể:
1. Ông Đoàn Đắc B, bà Nguyễn Thị H1 ở trên một phần đất bên ngoài giáp đường bê tông, trên đất có 01 nhà 02 tầng và công trình phụ do vợ chồng ông B xây dựng năm 2017.
2. Phần đất tiếp theo ở giữa thửa đất 150, cụ Q và chị Đoàn Thị H quản lý, sử dụng. Trên phần đất này có ngôi nhà cấp 4, giếng, nhà tắm, sân, thềm; 03 cây na, 1 cây vối, 01 cây xà cừ, 01 cây vú sữa.
3. Phần đất trong cùng do bà Đoàn Thị C cùng các con là Nguyễn Anh T2, Nguyễn Phương L1, Vi Thị Đ5 quản lý, sử dụng. Trên đất có 01 ngôi nhà cấp 4, công trình phụ do bà C xây dựng năm 2017; 01 cây mít là của cụ Q và cụ V4.
Ngoài thửa đất số 150 và tài sản trên đất, cụ V4 còn có tài sản là đất nông nghiệp được giao theo định suất. Cụ thể: thửa số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2; thửa số 310, tờ bản đồ số 18, diện tích 538 m2; thửa số 696, tờ bản đồ số 18, diện tích 24m2; thửa số 944, tờ bản đồ số 12, diện tích 474 m2; thửa số 943, tờ bản đồ số 18, diện tích 244 m2. Những thửa đất này đều ở địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số 20155 ngày 20/8/1993, mang tên ông Đoàn Đức V4.
Theo bản đồ đo đạc 2009: thửa số 536 thuộc tờ bản đồ số 72, phân tách thành 02 thửa thuộc tờ bản đồ số 72 là thửa 171 có diện tích 513,8 m2 và thửa 182 có diện tích 519,3 m2 (năm 2015 thửa số 182 bị thu hồi hết, thửa số 171 bị thu hồi 323,8 m2, diện tích còn lại là 190 m2). Về số tiền bồi thường đối với các thửa đất bị thu hồi: thửa 182, số tiền bồi thường là 119.480.380 đồng; thửa 171, số tiền bồi thường là là 70.135.080 đồng. Tổng số tiền bồi thường là 189.615.460 đồng do bà H nhận (do thời điểm đó, cụ Q tuổi đã cao, bà H là người cấy lúa tại những thửa ruộng này). Trong số tiền bồi thường có khoản tiền bồi thường đối với tài sản trên đất đối với hoa màu của bà H nên thuộc sở hữu hợp pháp của bà H, cụ thể: thửa 182 là 3.427.380 đồng, thửa 171 là 2.137.080 đồng, tổng là 5.564.460 đồng.
Đối với 05 thửa đất ruộng nêu trên có tổng diện tích 2.282 m2 cụ V4 được cấp GCNQSDĐ ngày 20/8/1993 là cấp cho các thành viên trong hộ cụ V4 gồm 4 thành viên là cụ V4, cụ Q, bà C và bà H. Bà C và bà H được giao định suất 1 sào 5 thước = 480m2 đất, riêng cụ V4 và cụ Q trên 60 tuổi là được cấp định suất 1 sào 5 thước + 3 thước rau xanh = 1 sào 08 thước. Do đó, số tiền bồi thường còn lại 189.615.460 đồng - 5.564.460 đồng = 184.051.000 đồng là bồi thường chung cho những người được giao đất ruộng gồm cụ V4, cụ Q, bà C và bà H.
Hiện bà H đang quản lý, sử dụng các thửa 944, tờ bản đồ 12; thửa số 696, tờ bản đồ 18; diện tích đất còn lại của thửa 536, tờ bản đồ 18. Bà C đang quản lý sử dụng thửa số 943, tờ bản đồ số 12 và thửa số 310, tờ bản đồ số 18.
Nay cụ Q yêu cầu chia thửa đất số 150 có diện tích 798 m2 (300 m2 đất ở, 498 m2 đất vườn), đo đạc thực tế là 971,2 m2 (theo hình thể đo vẽ là BFEE1E2E4E5YXQPNMKHG) đất gia đình đã sử dụng ổn định, không tranh chấp với ai (đối với phần diện tích đất sử dụng sang hộ liền kề hoặc hộ liền kề sử dụng vào thì cụ Q không yêu cầu xem xét, giải quyết trong vụ này) cùng tài sản trên đất là: nhà, sân, bờ gạch, giếng, nhà vệ sinh, 03 cây na, 01 cây mít (trồng phía sau nhà bà C), 01 cây vú sữa, 01 cây vối. Cụ Q yêu cầu chia tài sản chung là 971,2 m2 cùng tài sản trên đất, trong đó chia cho cụ Q 1/2 diện tích đất và tài sản trên đất, còn lại 1/2 là tài sản của cụ V4 là di sản để chia thừa kế theo pháp luật. Trên phần đất cụ Q sử dụng có một số cây đu đủ, cây ổi là tự mọc, cây cảnh không giá trị nên cụ Q không yêu cầu chia, sau chia đất cho ai sử dụng thì người đó có quyền sở hữu.
Theo đơn khởi kiện, cụ Q yêu cầu chia 02 thửa đất ruộng là 536 và 696, sau cụ Q rút yêu cầu chia thửa 696, chỉ yêu cầu chia thửa 536, những thửa ruộng khác (696, 310, 943, 944) ai đang sử dụng thì tiếp tục sử dụng, cụ Q không yêu cầu chia.
Cụ Q yêu cầu được chia bằng hiện vật là phần đất có nhà hiện đang quản lý, sử dụng.
Ngày 05/9/2023, người đại diện theo ủy quyền của cụ Q rút yêu cầu chia thửa ruộng số 536 và nhất trí với yêu cầu độc lập của bà Đoàn Thị H. Đối với 05 thửa đất ruộng có tổng diện tích 2.282 m2 mà cụ V4 được cấp GCNQSDĐ ngày 20/8/1993 là cấp cho các thành viên trong hộ cụ V4 gồm 4 người là cụ V4, cụ Q, bà C và bà H, mỗi người được giao định suất 1 sào 5 thước = 480m2 đất. Đề nghị Tòa án xem xét: định suất ruộng của cụ V4 để lại là số ruộng đã được Nhà nước thu hồi, bồi thường nằm trong số tiền 184.051.000 đồng mà bà H đã nhận, số diện tích ruộng còn lại của thửa 536 + 04 thửa ruộng và số tiền bồi thường còn lại là tài sản của bà H, bà C và cụ Q.
Trường hợp Tòa án chia hiện vật là đất ở và đất vườn của thửa đất số 150, tờ bản đồ số 18 mà phải dành một phần đất để mở lối đi chung thì đề nghị xác định phần đất này là đất vườn, diện tích đất còn lại và tài sản trên đất thì chia tài sản chung cho cụ Q, cụ V4 mỗi người 1/2, phần di sản của cụ V4 chia thừa kế theo pháp luật.
Bị đơn - ông Đoàn Đắc B trình bày: Ông thừa nhận lời trình bày của phía nguyên đơn về quá trình kết hôn, con chung của cụ Q và cụ V4, thời điểm cụ V4 chết, là đúng. Khi sống chung cụ Q và cụ V4 có các tài sản chung gồm:
- Về đất ở, đất vườn: ông xác nhận cụ Q và cụ V4 có thửa đất số 150 cùng tài sản trên đất, hiện trạng sử dụng đất như phía nguyên đơn trình bày là đúng. Ngoài ra, cụ Q và cụ V4 còn có tài sản chung là cây xà cừ trồng trên thửa đất số 150 (đã được thẩm định, định giá), do bão đã đổ vào cổng nhà ông, nên ông đã phải bỏ tiền ra sửa cổng, cắt cây hết 3.500.000 đồng. Sau đó, bà H đã bán cây xà cừ với giá 6.000.000 đồng. Ông đề nghị buộc bà H phải bỏ ra số tiền bán cây để bồi thường cho ông số tiền 3.500.000 đồng.
- Về đất nông nghiệp: cụ Q và cụ V4 được chia tổng diện tích 2.282 m2 gồm các thửa ruộng sau: thửa số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2; thửa số 310, tờ bản đồ số 18, diện tích 538 m2; thửa số 696, tờ bản đồ số 18, diện tích 24m2; thửa số 944, tờ bản đồ số 12, diện tích 474 m2; thửa số 943, tờ bản đồ số 18, diện tích 244 m2. Những thửa đất này đều ở địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ ngày 20/8/1993, người đứng tên giấy chứng nhận: Đoàn Đức V4. Các thửa đất này được cấp cho 5 thành viên là cụ V4, cụ Q, ông, bà C và bà H. Mỗi thành viên là được cấp định suất 1 sào 5 thước = 480m2 đất. Hiện bà H đang quản lý, sử dụng các thửa 944, tờ bản đồ 12; thửa số 696, tờ bản đồ 18; diện tích đất còn lại của thửa 536, tờ bản đồ 18. Bà C đang quản lý sử dụng thửa số 310, tờ bản đồ số 18. Ông Đ1 đang quản lý sử dụng thửa số 943, tờ bản đồ số 12.
Theo bản đồ đo đạc năm 2009: thửa đất số 536 thuộc tờ bản đồ số 18, phân tách thành 02 thửa thuộc tờ bản đồ số 72 là thửa 171 có diện tích 513,8 m2 và thửa 182 có diện tích 519,3 m2 (năm 2015 thửa số 182 bị thu hồi hết, thửa số 171 bị thu hồi 323,8 m2, diện tích còn lại là 190 m2 ). về số tiền bồi thường đối với các thửa đất bị thu hồi: thửa 182, số tiền bồi thường 119.480.380 đồng; thửa 171, số tiền bồi thường 70.135.080 đồng. Tổng số tiền bồi thường là 189.615.460 đồng do bà H nhận.
Cụ V4 chết không để lại di chúc, nay ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông đề nghị Tòa án chấp nhận theo thoả thuận phân chia tài sản của các thành viên trong gia đình theo biên bản họp gia đình lập ngày 10/9/2017. Ông đề nghị Tòa án chia phần đất cho ông được hưởng theo mốc giới hiện nay và xem xét giao cho ông rõ ranh giới, gồm cả phần đất 60 cm có giọt ranh.
Ông đề nghị Tòa án xác định những người được giao ruộng, giao bao nhiêu; phần đất ruộng của ai thì giao trả cho người đó; phần tiền bồi thường bà H nhận là bồi thường chung cho những người có ruộng nên đề nghị chia cho những người có ruộng; phần tiền bồi thường và đất ruộng còn lại của cụ V4 thì đề nghị Tòa án chia di sản theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ V4.
Trường hợp Tòa án chia di sản thừa kế của cụ V4 để lại theo pháp luật, kỷ phần của ông Đ1, ông V2, bà T được hưởng, các ông, bà có ý kiến nhường lại cho ông, ông đồng ý và sẽ chịu án phí đối với những phần này.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập - bà Đoàn Thị H trình bày: Bà thống nhất với lời khai của nguyên đơn về quá trình kết hôn, các con chung của cụ Q và cụ V4, thời điểm cụ V4 chết, đất ở, đất vườn và tài sản trên đất. Trên phần đất cụ Q và bà quản lý, sử dụng có tài sản gồm: 01 ngôi nhà cấp 4 (4 gian), giếng của bố mẹ xây từ năm 1978; nhà tắm, sân, thềm do bà và cụ Q xây từ năm 2012; một số cây na, 1 cây vối, 01 cây xà cừ, 01 cây vú sữa (cây na, cây vú sữa, vối do bà và cụ Q trồng; 01 cây xà cừ là của bà trồng).
Đối với cây xà cừ do bà trồng vừa qua do bão nên cây đổ vào một phần mái tôn và cổng inox của nhà ông B. Sau ông B thuê người cắt làm 03 khúc. Cuối tháng 10, đầu tháng 11 vừa rồi, bà bán cho ông H3 ở thôn N, xã T với số tiền 4.000.000 đồng, số tiền này bà mua thuốc cho cụ Q. Ông B trình bày bà bán được 6.000.000 đồng là không đúng. Khi Công an làm việc vì lúc bực tức nên bà mới nói là bán 6.000.000 đồng, thực chất chỉ được 4.000.000 đồng.
Ông B trình bày: các thành viên trong gia đình có họp thống nhất phân chia tài sản có biên bản lập ngày 10/9/2017 và bà là người giữ bản gốc biên bản này là không đúng, bà không biết, bà không được họp, bà cũng không giữ biên bản họp ngày 10/9/2017 nên không có để giao nộp cho Tòa án.
Về đất nông nghiệp: thửa số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2; thửa số 310, tờ bản đồ số 18, diện tích 538 m2; thửa số 696, tờ bản đồ số 18, diện tích 24m2; thửa số 944, tờ bản đồ số 12, diện tích 474 m2; thửa số 943, tờ bản đồ số 18, diện tích 244 m2. Bà thống nhất nội dung trình bày của phía nguyên đơn về việc quản lý, sử dụng các thửa ruộng; những người được giao định suất ruộng; việc Nhà nước thu hồi, bồi thường đối với thửa ruộng số 536.
Cụ V4 chết không để lại di chúc, nay bà đề nghị Tòa án chia di sản của cụ V4 theo pháp luật cho những người thừa kế gồm cụ Q và 09 người con. Bà đề nghị Tòa án chia thừa kế cho bà bằng hiện vật là phần đất ở vị trí trong cùng gần nhà bà C đang ở.
Ngày 04/4/2023, bà có đơn yêu cầu độc lập đề nghị giải quyết: năm 2015, bà có nhận số tiền bồi thường là 189.615.460 đồng do Nhà nước thu hồi đất ruộng thửa 171, 182 ở thôn M, xã T, huyện L của cụ Q, cụ V4, bà C và bà. Trong số tiền bồi thường có khoản tiền bồi thường đối với tài sản trên đất, thửa 182 bồi thường 3.427.380 đồng, thửa 171 bồi thường 2.137.080 đồng, tổng là 5.564.460 đồng. Bà yêu cầu Tòa án công nhận số tiền 5.564.460 đồng này thuộc sở hữu hợp pháp của bà. Số tiền bồi thường còn lại 189.615.460 đồng - 5.564.460 đồng = 184.051.000 đồng là bồi thường chung cho những người được giao đất ruộng gồm cụ V4, cụ Q, bà C và bà. Bà yêu cầu Tòa án chia di sản của cụ V4 để lại là số tiền bồi thường đất ruộng nằm trong số tiền mà bà đã nhận.
Nay bà đề nghị Tòa án xác định định suất ruộng của cụ V4 để lại là số ruộng đã được Nhà nước thu hồi, bồi thường nằm trong số tiền 184.051.000 đồng mà bà đã nhận, số diện tích ruộng còn lại của thửa 536 + 04 thửa ruộng và số tiền bồi thường còn lại là tài sản của bà, bà C và cụ Q.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Đoàn Thị V1, bà Đoàn Thị Đ, ông Đoàn Văn Đ1, bà Đoàn Thị T, bà Đoàn Thị T1, bà Đoàn Thị C trình bày: thống nhất với nội dung trình bày của ông Đoàn Đắc B. Trường hợp Tòa án chia di sản thừa kế (đất ở, đất vườn, tài sản trên đất, đất ruộng, tiền bồi thường...) của cụ V4 theo pháp luật, kỷ phần của ông Đ1, bà T được hưởng, ông, bà tự nguyện nhường lại cho ông B hưởng; kỷ phần của bà Đ, bà V1, bà T1 được hưởng, các bà tự nguyện nhường lại cho bà C hưởng. Kỷ phần ông B, bà C được anh, chị, em nhường cho thì ông B, bà C phải chịu án phí, chi phí tố tụng đối với phần đó.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - ông Đoàn Đắc V2 trình bày: thống nhất với nội dung trình bày của nguyên đơn, bị đơn về con chung của cụ Q, cụ V4. Ông thừa nhận cụ Q và cụ V4 có tài sản chung là nhà, đất và các tài sản như trên. Trường hợp Tòa án chia di sản thừa kế của cụ V4 theo pháp luật, phần tài sản mà ông được hưởng, ông tự nguyện nhường cho ông B.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - bà Nguyễn Thị H1, chị Nguyễn Phương L1, chị Nguyễn Thị Đ2, anh Nguyễn Anh T2 đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng nhưng không cung cấp ý kiến cho Tòa án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - đại diện UBND huyện L trình bày:
Đối với thửa đất ở và đất vườn: thửa đất hộ gia đình cụ Q, cụ V4 sử dụng từ năm 1965. Theo hồ sơ địa chính xã T đang lưu trữ, tại Đơn xin đăng ký cấp GCNQSDĐ ngày 05/5/1993 của hộ ông Đoàn Đức V4 thể hiện thửa đất số 150, tờ bản đồ 18, diện tích 1.086m2 (trong đó có: 300m2 đất ở và 786 m2 đất vườn), phần ghi chú ghi "cấp 798m2 xã cấp năm 1965" và các thửa đất nông nghiệp được giao gồm thửa số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2; thửa số 310, tờ bản đồ số 18, diện tích 538 m2; thửa số 696, tờ bản đồ số 18, diện tích 24m2; thửa số 944, tờ bản đồ số 12, diện tích 474 m2; thửa số 943, tờ bản đồ số 18, diện tích 244 m2 theo quy định. Ngày 20/8/1993, UBND huyện L đã cấp GCNQSDĐ cho hộ ông V4 đối với các thửa đất kê khai trong đơn. Việc cấp GCNQSDĐ của UBND huyện cho hộ ông V4 là đảm bảo quy định của Luật Đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, đối với thửa đất ở và đất vườn hộ ông V4 chỉ được cấp 798m2 đất (trong đó có: 300m2 đất ở và 498 m2 đất vườn), phần diện tích còn lại 288m2 chưa được cấp GCN, hiện không xác định được vị trí cụ thể chỗ nào trên thửa đất số 150, tờ bản đồ 18, diện tích 1.086m2. Về nhân khẩu thì theo đơn cấp GCNQSDĐ kê khai ngày 05/5/1993 hộ ông V4 gồm có 4 nhân khẩu. Cụ thể những thành viên nào đề nghị Tòa án xác minh làm rõ với Công an xã T.
Qua làm việc, UBND xã T cung cấp: hộ cụ V4, cụ Q sử dụng thửa đất số 150, tờ bản đồ 18, diện tích theo GCN đã cấp 798m2 từ năm 1965. Theo đo đạc bản đồ địa chính năm 1993 diện tích thực tế là 1.086m2, thửa đất này hộ cụ Q sử dụng ổn định, liên tục, không tranh chấp với các hộ giáp ranh, liền kề. Theo hồ sơ địa chính xã T lập năm 1993 tại trang số 155 sổ địa chính; tờ bản đồ số 18; sổ mục kê; đơn xin đăng ký cấp GCNQSDĐ đề ngày 05/5/1993 đều thể hiện hộ cụ V4 sử dụng diện tích 1086m2 nhưng chỉ được cấp GCN 798m2 phần diện tích còn lại không xác định được là ở vị trí nào trên thửa đất. Theo kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất theo ranh giới, mốc giới hộ gia đình tự xác định, cho thấy: diện tích thực tế hộ bà Q đang sử dụng là 1.002,3m2, tăng 204,3m2 so với diện tích được cấp GCN và giảm 83,7m2 so với bản đồ đo đạc năm 1993.
Theo GCNQSDĐ, thửa đất số 150 có diện tích 300 m2 đất ở và 498 m2 đất vườn; theo bản đồ địa chính xã T đo đạc năm 1993 thể hiện thửa đất số 150 có diện tích 1.086 m2; bản đồ đo đạc năm 2009 thể hiện là thửa 75, diện tích 962,9 m2. Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ hiện trạng, chồng ghép bản đồ ngày 17/5/2023 xác định diện tích hiện trạng sử dụng là 1002,3m2. Kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của hộ cụ Q cho thấy: hiện cụ Q đã xây dựng tường bao kiên cố ngăn cách giữa các hộ liền kề, ranh giới, mốc giới rõ ràng. Lý do diện tích tăng, giảm đã được thể hiện chi tiết tại kết quả thẩm định ngày 17/5/2023. Đối với phần diện tích 204,3m2 đất tăng thêm so với GCNQSDĐ đã cấp được xác định là đất trồng cây lâu năm. Phần đất này do không xác định được vị trí cụ thể nên UBND huyện L chưa cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình cụ Q. Hộ cụ V4, cụ Q không nhận tặng cho, nhận chuyển nhượng thêm diện tích của bất kỳ hộ gia đình, cá nhân nào, thửa đất đang sử dụng ổn định, không tranh chấp với các hộ liền kề. Do vậy phần diện tích sử dụng thực tế tăng thêm 204,3m2 đủ điều kiện để công nhận và cấp GCNQSDĐ cho hộ cụ Q. Đề nghị Tòa án phân chia và giao cho các thành viên được thừa kế tiếp tục quản lý, sử dụng vào đúng mục đích sử dụng đất. UBND huyện xem xét cấp GCNQSDĐ căn cứ vào quyết định của Tòa án.
Về đất ruộng: năm 2009, đo đạc lại bản đồ địa chính xã T, thửa đất số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2, được đo tách ra thành 02 thửa đất mới là thửa số 171, tờ 72, diện tích 513,8 m2 và thửa số 182, tờ 72, diện tích 519,3 m2 (tổng diện tích 02 thửa 182 + 171 là 1033,1 m2, tăng 31,1m2 so với năm 1993 là do sai số đo đạc). Năm 2015, thực hiện dự án giao đất ở cho nhân dân xã T, UBND huyện đã ban hành Quyết định số 1951/QĐ-UBND ngày 03/9/2015 về việc thu hồi đất, diện tích thu hồi tại thửa số 182, là 519,3 m2 và thửa số 171 là 323,8m2, diện tích còn lại của thửa 171, tờ bản đồ số 72, diện tích 190 m2. Tổng số tiền bồi thường giải phóng mặt bằng là 189.615.460 đồng; người nhận tiền bồi thường là bà Đoàn Thị H. Nay nguyên đơn yêu cầu chia phần định suất đất mộng của cụ V4 được hưởng tại thửa đất số 536, tờ bản đồ số 18; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đoàn Thị H có yêu cầu độc lập công nhận số tiền 5.564.460 đồng tiền bồi thường hoa màu trên đất này thuộc sở hữu hợp pháp của bà; số tiền bồi thường còn lại 189.615.460 đồng - 5.564.460 đồng = 184.051.000 đồng là tiền bồi thường chung cho những người được giao đất mộng, yêu cầu Tòa án chia di sản của cụ V4 để lại là số tiền bồi thường đất mộng nằm trong số tiền mà bà đã nhận. UBND huyện đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan - đại diện UBND xã T, huyện L trình bày: đối với thửa đất số 150, tờ bản đồ số 18 về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất, việc cấp GCNQSDĐ, biến động diện tích đất... như đại diện UBND huyện L trình bày là đúng. Đề nghị Tòa án xem xét phân chia và giao đất (1002,3m2 ) cho các thành viên được thừa kế theo quy định của pháp luật.
Đối với các thửa đất nông nghiệp gồm: thửa số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2; thửa số 310, tờ bản đồ số 18, diện tích 538 m2; thửa số 696, tờ bản đồ số 18, diện tích 24m2; thửa số 944, tờ bản đồ số 12, diện tích 474 m2; thửa số 943, tờ bản đồ số 18, diện tích 244 m2. Tổng diện tích 2.282 m2 mà cụ V4 được GCNQSDĐ ngày 20/8/1993 thuộc quyền quản lý, sử dụng của các thành viên trong hộ cụ V4, tại thời điểm giao ruộng năm 1993 gồm 04 thành viên là: cụ V4, cụ Q, bà C và bà H. Về định suất đất ruộng các thành viên đều là lao động chính nên mỗi người được giao 01 sào 05 thước = 480m2 đất 2 lúa, 4 thành viên x 480m2 đất/1 thành viên = 1.920 m2 (GCNQSDĐ cấp 2.282 m2 đất trồng lúa, trong đó 1.564 m2 đất 2 lúa, đất 1 lúa là 718 m2). Việc giao đất canh tác cho hộ cụ V4 là giao chung cho các thành viên trong hộ, không tách rời từng thửa cho từng cá nhân. Thời điểm chốt sổ hộ khẩu để được giao đất ruộng là trước ngày 31/12/1991, tức là ai có hộ khẩu trước ngày này mới được giao đất ruộng, ông B lấy vợ chuyển về Xương Lâm từ trước ngày 31/12/1991 nên không được giao đất ruộng.
Đối với thửa ruộng 536, năm 2009, đo đạc lại bản đồ địa chính xã T thì thửa đất số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2, được đo tách ra thành 02 thửa đất mới là thửa số 171, tờ 72, diện tích 513,8 m2 và thửa số 182, tờ 72, diện tích 519,3 m2 (tổng diện tích 02 thửa 182 + 171 là 1033,1 m2, tăng 31,1m2 so với năm 1993 là do sai số đo đạc). Năm 2015, thực hiện dự án giao đất ở cho nhân dân xã T, UBND huyện đã ban hành Quyết định số 1951/QĐ-UBND ngày 03/9/2015 về việc thu hồi đất, diện tích thu hồi tại thửa số 182, là 519,3 m2 và thửa số 171 là 323,8m2, diện tích còn lại của thửa 171, tờ bản đồ số 72, diện tích 190 m2. Tổng số tiền bồi thường giải phóng mặt bằng là 189.615.460 đồng; người nhận tiền bồi thường là bà Đoàn Thị H.
Nay nguyên đơn yêu cầu chia phần định suất đất ruộng của cụ V4 được hưởng tại thửa đất số 536, tờ bản đồ số 18; chị Đoàn Thị H có đơn yêu cầu độc lập công nhận số tiền 5.564.460 đồng tiền bồi thường hoa màu trên đất này thuộc sở hữu hợp pháp của bà; số tiền bồi thường còn lại 189.615.460 đồng - 5.564.460 đồng = 184.051.000 đồng là tiền bồi thường chung cho những người được giao đất ruộng. Bà H yêu cầu Tòa án chia di sản của cụ V4 để lại là số tiền bồi thường đất ruộng nằm trong số tiền mà bà đã nhận. UBND xã đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.
Với nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 53/2023/DS-ST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã căn cứ Điều 636, Điều 637, Điều 638, Điều 677, Điều 678, Điều 679, Điều 688, Điều 738, Điều 739 Bộ luật dân sự năm 1995; Điều 609, Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 623, 649, Điều 650, Điều 651, Điều 660, Điều 688, Điều 221, Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015; Điều 17 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Triệu Thị Q về yêu cầu chia tài sản chung, chia di sản thừa kế của cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4) theo pháp luật đối với tài sản là thửa đất số 150, tờ bản đồ số 18, địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang cùng tài sản trên đất.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của cụ Triệu Thị Q về yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4) theo pháp luật đối với tài sản là định suất ruộng tại thửa đất số 536, tờ bản đồ số 18, địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Đoàn Thị H về yêu cầu công nhận quyền sở hữu đối với số tiền bồi thường hoa màu trên đất khi Nhà nước thu hồi đất ruộng canh tác, số tiền 5.564.460 đồng thuộc sở hữu của bà H; yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4) theo pháp luật đối với số tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ruộng canh tác.
4. Công nhận sự tự nguyện của ông Đoàn Văn Đ1, bà Đoàn Thị T, ông Đoàn Đắc V2 cho ông Nguyễn Văn B1 giá trị tài sản thừa kế của mình. Công nhận sự tự nguyện của bà Đoàn Thị V1, bà Đoàn Thị Đ, bà Đoàn Thị T1 cho bà Đoàn Thị C giá trị tài sản thừa kế của mình.
5. Xác nhận tài sản chung của cụ Triệu Thị Q và cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4); di sản thừa kế của cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4) để lại được chia cho các thừa kế theo pháp luật:
5.1. Xác nhận tài sản chung của cụ Q và cụ V4 gồm:
Diện tích đất 971,2 m2 (trong đó có 300 m2 đất ở, 671.2 m2 đất vườn) tại thửa số 150, tờ bản đồ số 18, địa chỉ: Thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang, được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 20155 QSDĐ cấp ngày 20/8/1993, người đứng tên giấy chứng nhận: Đoàn Đức V4, cùng một số tài sản trên đất. Trị giá đất là: 2.506.800.000 đồng Tài sản trên thửa đất số 150 gồm: Nhà ở cấp 4 trị giá 15.204.800đồng, sân vôi trị giá 272.800đồng, bờ gạch bao sân trị giá 78.300đồng, giếng đào trị giá 1.124.000đồng, nhà vệ sinh trị giá 35.000đồng, 03 cây na trị giá 975.000 đồng, 01 cây vú sữa trị giá 3.412.000 đồng, 01 cây mít trị giá 1.160.000đồng, 01 cây vối trị giá 415.000đồng, 01 cây xà cừ đã bán được 6.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản trên đất là: 28.676.900 đồng.
Để lại lối đi chung vào các phần đất khi phân chia có diện tích là 97,5 m2 (thuộc loại đất vườn) nằm trong thửa đất số 150, trị giá 146.250.000 đồng. Xác nhận Vi tài sản của cụ Q trong khối tài sản chung là (2.535.476.900 đồng - 146.250.000 đồng)/2 = 1.194.613.450 đồng, di sản của cụ V4 để lại có giá trị là: 1.194.613.450 đồng.
5.2. Xác nhận di sản thừa kế của cụ V4 để lại được chia cho các thừa kế theo pháp luật gồm: Đất ở, đất vườn tại thửa đất số 150 và tài sản trên đất trị giá 1.194.613.450 đồng; số tiền bồi thường đất ruộng khi Nhà nước thu hồi trị giá 46.012.750 đồng. Cụ Q, bà V1, bà Đ, ông Đ1, ông V2, bà T, ông B1, bà T1, bà C, bà H mỗi người được hưởng phần di sản thừa kế của cụ V4 là 119.461.345 đồng giá trị tài sản đất ở, đất vườn và tài sản trên đất và được hưởng số tiền bồi thường đất ruộng khi Nhà nước thu hồi là 4.601.175 đồng. Tổng giá trị tài sản mà mỗi người được hưởng là 124.062.620 đồng.
Tổng giá trị cụ Q được chia tài sản chung, được hưởng kỷ phần thừa kế của cụ V4 là: 1.194.613.450 đồng + 124.062.620 đồng= 1.318.676.070 đồng.
Tổng giá trị di sản ông B1 (gồm cả phần di sản ông Đ1, bà T, ông Vũ n cho), bà C (gồm cả phần di sản của bà V1, bà Đ, bà T1 nhường cho) mỗi người được hưởng 496.250.480 đồng.
Bà H được hưởng kỷ phần thừa kế của cụ V4 là 124.062.620 đồng.
6. Phân chia bằng hiện vật, thanh toán chênh lệch:
Thửa đất số 150, tờ bản đồ số 18, địa chỉ thửa đất: Thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang, có tứ cận: Phía Đông Bắc giáp đất nhà ông Đ1, ông H4; phía Đông Nam giáp đất nhà ông H5; phía Tây Nam giáp đường; phía T giáp mương nước, đất nhà ông Q1. Thửa đất số 150 được chia làm 5 phần có ký hiệu là S1, S2, S3, S4, S5. Trong đó, hình S1 được nối các điểm C,D,E,F; hình S2 được nối các điểm C,F,E,H,G,B; hình S3 được nối các điểm G,H,Y,K,M; hình S4 được nối các điểm M,K,Q,P,N; hình S5 được nối các điểm A,B,G,M,N. Cụ thể phân chia:
- Giao cho ông Đoàn Đắc B quyền sử dụng phần đất có ký hiệu S1, có diện tích 259,6 m2 (trong đó có 60 m2 đất ở; 199,6 m2 đất vườn), trị giá 599.400.000 đồng. Phần đất S1 có các cạnh như sau: cạnh CD giáp đường, chiều dài gồm các đoạn 4,2m + 6,1m + 9,2 m +0,5m + 5,6m + 1,6m +4,4m; Cạnh DE giáp mương, chiều dài 8,4m; Cạnh EF giáp đất giao cho cụ Q, chiều dài gồm các đoạn 2,2m + 12m + 8,5m; Cạnh FC giáp đất giao cho cụ Q, chiều dài gồm các đoạn 5,9m + 1,9m + 0,8m.
Những tài sản phát sinh trên đất của ông B được giao gồm nhà ở, công trình phụ và một số tài sản do ông B, bà H1 xây dựng nên thuộc quyền sở hữu của ông B, bà H1.
- Giao cho cụ Triệu Thị Q quyền sử dụng phần đất có ký hiệu S2, có diện tích 290,7 m2 (trong đó có 165 m2 đất ở; 125,7 m2 đất vườn) trị giá 1.013.550.000 đồng. Phần đất S2 có các cạnh như sau: Cạnh CF giáp đất giao cho ông B, chiều dài gồm các đoạn 0,8m + 1,9m + 5,9 m; Cạnh FE giáp đất giao cho ông B, chiều dài gồm các đoạn 8,5m + 12m + 2,2m; Cạnh EH giáp mương, chiều dài 10 m; Cạnh HG giáp đất giao cho bà C, chiều dài gồm các đoạn 7,6 m + 3.5 m+ 8,2m; Cạnh GB giáp đường đi chung, chiều dài gồm các đoạn 15,2 m + 7,7m; Cạnh BC giáp đường, chiều dài gồm các đoạn 2,8m + 1,5m+ 6,0 + 0,9m.
Giao cho cụ Q quyền sở hữu những tài sản trên phần đất được giao gồm: 01 nhà cấp 4, 01 sân vôi, bờ gạch bao sân, 01 giếng đào, 01 nhà vệ sinh, 02 cây na.
Giao cho cụ Q quyền sở hữu những tài sản trên đường đi chung ký hiệu S5, gồm: 01 cây na, 01 vú sữa, 01 cây vối.
Tổng giá trị tài sản cụ Q được chia bằng hiện vật là: 1.035.066.900 đồng.
Cụ Q được quyền sở hữu một số tài sản như một số cây cối lâm lộc (như cây ổi, cây đu đủ...) và một số tài sản khác trên phần đất được giao.
Buộc bà H phải tháo dỡ, di dời cột bê tông và rào sắt ở phía cổng; buộc ông B, bà H1 phải phá dỡ bờ tường ở phía cổng trên phần đất cụ Q được giao.
- Giao cho bà Đoàn Thị C quyền sử dụng phần đất có ký hiệu S3, có diện tích 178,6 m2 (trong đó có 60 m2 đất ở; 118,6 m2 đất vườn) trị giá 477.900.000 đồng. Phần đất S3 có các cạnh như sau: Cạnh GH giáp đất giao cho cụ Q, chiều dài gồm các đoạn 8,2 m + 3.5 m+ 7,6m; Cạnh HY giáp mương, chiều dài 7,1m; Cạnh YK giáp đất ông Q1, chiều dài gồm các đoạn 1,5m + 1,4m + 4,7m + 1,4m; Cạnh KM giáp đất giao cho bà H, chiều dài 7,0m; Cạnh MG giáp đường đi chung, chiều dài gồm các đoạn 3,6m + 9,6m.
Những tài sản phát sinh trên phần đất của bà C được giao gồm nhà ở, bếp và một số tài sản do bà C xây dựng nên thuộc quyền sở hữu của bà C.
- Giao cho bà Đoàn Thị H quyền sử dụng phần đất có ký hiệu S4, có diện tích 144,8 m2 (trong đó có 15 m2 đất ở; 129,8 m2 đất vườn), trị giá 269.700.000 đồng. Phần đất S4 có các cạnh như sau: Cạnh MK giáp đất giao cho bà C, chiều dài 7,0m; Cạnh KQ giáp đất ông Q1, chiều dài gồm các đoạn 7,4m + 9,3m; Cạnh QP giáp đất ông Đ1, chiều dài 12m; Cạnh PN giáp đất ông H4, ông H5, chiều dài gồm các đoạn 4,8m + 8,8m; Cạnh NM giáp đường đi chung, chiều dài 2,0m.
Giao cho bà H được quyền sở hữu 01 cây mít trên phần đất được giao.
Tổng giá trị tài sản bà H được chia bằng hiện vật là: 270.860.000 đồng + 6.000.000 đồng tiền bán cây xà cừ = 276.860.000 đồng.
Buộc ông Đoàn Văn Đ1 chặt, di dời cây vải thiều; buộc bà Đoàn Thị C tháo dỡ, di dời bán mái tôn và một số tài sản trên phần đất giao cho bà H.
- Phần đất ký hiệu S5 có diện tích 97,5 m2 (thuộc loại đất vườn) trị giá 146.250.000 đồng, là đường đi chung vào các thửa đất S2, S3, S4, thuộc quyền sử dụng chung của cụ Q, bà C, bà H. Phần đất S5 có các cạnh như sau: Cạnh AB giáp đường, chiều dài gồm các đoạn 3,6m + 4,4m; Cạnh B G giáp đất giao cho cụ Q, chiều dài gồm các đoạn 7,7m + 15,2m; Cạnh GM giáp đất giao cho bà C, chiều dài gồm các đoạn 9,6m + 3,6m; Cạnh MN giáp đất giao cho bà H, chiều dài 2,0m; Cạnh NA giáp đất ông H5, chiều dài gồm các đoạn 2,8m + 11,1m + 1,2m + 11,9m + 3,4m + 1,9m + 6,5 m.
Cụ Q được quyền sở hữu 01 cây na, 01 cây vối, 01 cây vú sữa trên đường đi chung. Cụ Q phải có trách nhiệm di dời những cây cối lâm lộc này trong trường hợp gây cản trở lối đi chung vào phần đất S3, S4 .
Buộc bà C phải phá dỡ, tháo dỡ, di dời tài sản trên đường đi chung gồm có: Trụ cổng, cánh cổng sắt, bờ gạch, khu chăn nuôi và một số tài sản. Để lại sân gạch liên doanh có diện tích 20,5 m2 trên lối đi chung vào phần đất S3, S4.
Phần diện tích đất được giao trên đều được thể hiện tại sơ đồ kèm theo bản án, là bộ phận không tách rời bản án.
Các đương sự được phân chia, giao đất theo bản án có quyền, nghĩa vụ làm thủ tục, đăng ký kê khai để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Thanh toán chênh lệch:
Cân đối giữa tài sản được giao và giá trị tài sản được hưởng (đất ở, đất vườn, tài sản trên đất), những người thừa kế phải trích trả cho nhau như sau: Ông B phải trích trả cho cụ Q 121.554.600 đồng; bà C phải trích trả cho cụ Q 54.600 đồng; bà H phải trích trả cho cụ Q 157.398.700 đồng.
Về số tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi thửa ruộng số 536, tờ bản đồ số 18, địa chỉ ở thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang: Bà H được quyền sở hữu số tiền 5.564.460 đồng là tiền bồi thường hoa màu trên đất. số tiền bồi thường 46.012.750 là di sản thừa kế của cụ V4: Bà H phải trích trả cụ Q số tiền 4.601.300 đồng, trích trả cho ông B số tiền 18.405.100 đồng, trích trả cho bà C số tiền 18.405.100 đồng, bà H được hưởng số tiền 4.601.200 đồng.
Bà H phải thanh toán cho bà C giá trị sân gạch liên doanh trên đường đi chung là 2.439.500 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ chậm thi hành án, quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
Ngày 28/9/2023, ông B kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án, đặc biệt là việc chia đất về giọt gianh, mốc giới, định suất ruộng của từng nhân khẩu.
Ngày 02/10/2023, bà C kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chia thửa đất 150, tờ bản đồ 18 cho ông B phần đất ở ngoài, bà H phần đất ở giữa, bà C phần đất trong cùng.
Ngày 09/10/2023, cụ Q (do ông M đại diện theo ủy quyền) kháng cáo đề nghị sửa bản án sơ thẩm, mở rộng lối đi vào thửa đất của bà, chia cho bà H phần di sản và phần đất nhiều hơn vì có công sức đóng góp, duy trì, phát triển khối tài sản chung của vợ chồng cụ. Ngày 10/10/2023, cụ Q (do ông M đại diện theo ủy quyền) có đơn rút toàn bộ nội dung kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vắng mặt, ông B là bị đơn giữ nguyên kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà C có kháng cáo nhưng vắng mặt không có lý do.
Ông B phát biểu ý kiến tranh luận: đề nghị HĐXX xem xét các nội dung kháng cáo của ông và giải quyết vụ án cho minh bạch, đảm bảo quyền lợi của ông và các anh chị em gia đình ông, chia diện tích ruộng còn lại cho 5 định suất gồm cụ Q, cụ V4, bà H, bà C, ông B, định suất ruộng của cụ V4 đề nghị không chia mà để cho anh Đ1 để anh Đ1 canh tác lấy tiền thờ cúng cụ V4. Phần đất bên trong Tòa án sơ thẩm chia cho bà H ông không đồng ý chia cho bà H.
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX, Thư ký đã thực hiện đúng, đủ quy định của BLTTDS, một số đương sự chưa thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS. Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của cụ Q, ông B, bà C, phân tích nội dung, các tình tiết của vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 289, khoản 3 Điều 296, khoản 1 Điều 308, Điều 312 của BLTDS xử: đình chỉ kháng cáo của cụ Q và kháng cáo của bà C; không chấp nhận kháng cáo của ông B. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 53/2023/DS-ST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang. Ông B, bà C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Cụ Q được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận; Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm ông Ngô Đình M là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, Luật sư Giáp Thị V, Nguyễn Thị L là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đều có đơn xin vắng mặt, đại diện UBND huyện L, đại diện UBND xã T, bà Đoàn Thị Đ. ông Đoàn Văn Đ1, bà Đoàn Thị T, bà Đoàn Thị T1, bà Đoàn Thị C, bà Đoàn Thị H, bà Nguyễn Thị H1, anh Nguyễn Anh T2, chị Nguyễn Thị Đ2, chị Nguyễn Phương L1 vắng mặt lần thứ hai không có lý do. HĐXX căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 296 BLTTDS tiếp tục tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Về thời hiệu khởi kiện, xác định thời điểm mở thừa kế: cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4) chết ngày 26/3/1997 là thời điểm mở thừa kế tài sản của cụ V4. Ngày 13/7/2020, cụ Q khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ V4 theo pháp luật. Căn cứ quy định tại Điều 623 của Bộ luật dân sự năm 2015 là còn thời hiệu như xác định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ.
[3]. Xét nội dung vụ án, HĐXX thấy: các đương sự trong vụ án đều xác nhận cụ Triệu Thị Q và cụ Đoàn Đắc V3 (Đoàn Đức V4) kết hôn năm 1953, hai cụ sinh được 10 người con chung gồm: bà Đoàn Thị V1, ông Đoàn Đắc Đ4, sinh năm 1956 (chết năm 1978, trước khi chết không có vợ con), bà Đoàn Thị Đ, ông Đoàn Văn Đ1, ông Đoàn Đắc V2, bà Đoàn Thị T, ông Đoàn Đắc B, bà Đoàn Thị T1, bà Đoàn Thị C và bà Đoàn Thị H. Ngoài ra, hai cụ không có con riêng, con nuôi nào khác. Năm 1997, cụ V4 chết không để lại di chúc.
Quá trình chung sống, cụ Q và cụ V4 tạo lập được khối tài sản chung gồm:
1. QSDĐ tại thửa đất số 150, tờ bản đồ số 18, diện tích 300 m2 đất ở và 498 m2 đất vườn, địa chỉ thửa đất: thôn M, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang được cấp GCNQSDĐ số 20155/QSDĐ ngày 20/8/1993, người đứng tên giấy chứng nhận: Đoàn Đức V4, cùng một số tài sản trên đất. Hiện thửa đất này do 03 hộ quản lý, sử dụng, cụ thể: ông Đoàn Đắc B và vợ là bà Nguyễn Thị H1 ở trên một phần đất bên ngoài giáp đường bê tông, trên đất có 01 nhà 02 tầng và công trình phụ do vợ chồng ông B xây dựng năm 2017; Phần đất tiếp theo ở giữa thửa đất 150, cụ Q và con gái Đoàn Thị H quản lý, sử dụng. Trên phần đất này có ngôi nhà cấp 4, giếng, nhà tắm, sân, thềm; một số cây cối gồm 03 cây na, 1 cây vối, 01 cây xà cừ, 01 cây vú sữa; Phần đất trong cùng do bà Đoàn Thị C cùng các con là Nguyễn Anh T2, Nguyễn Phương L1, Vi Thị Đ5 quản lý, sử dụng. Trên đất có các tài sản gồm ngôi nhà cấp 4, giếng, nhà vệ sinh, sân, bờ gạch bao sân, 03 cây na, 01 cây vối, 01 cây vú sữa, 01 cây xà cừ, 01 cây mít. Trị giá 2.535.476.900 đồng.
2. Đất nông nghiệp được giao theo định suất gồm: thửa số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2; thửa số 310, tờ bản đồ số 18, diện tích 538 m2; thửa số 696, tờ bản đồ số 18, diện tích 24m2; thửa số 944, tờ bản đồ số 12, diện tích 474 m2; thửa số 943, tờ bản đồ số 18, diện tích 244 m2, đều ở địa chỉ: thôn M, xã T, huyện L, được cấp GCNQSDĐ số 20155/QSDĐ ngày 20/8/1993, người đứng tên giấy chứng nhận: Đoàn Đức V4. Tổng diện tích đất nông nghiệp là 2.282 m2 của 4 thành viên là cụ V4, cụ Q, bà C và bà H.
Năm 2009, đo đạc lại bản đồ địa chính xã T, thửa đất số 536, tờ bản đồ số 18, diện tích 1.002 m2, được đo tách ra thành 02 thửa đất mới là thửa số 171, tờ 72, diện tích 513,8 m2 và thửa số 182, tờ 72, diện tích 519,3 m2 (tổng diện tích 02 thửa 182 + 171 là 1033,1 m2, tăng 31,1m2 so với năm 1993 là do sai số đo đạc). Năm 2015, thực hiện dự án giao đất ở cho nhân dân xã T, UBND huyện đã ban hành Quyết định số 1951/QĐ-UBND ngày 03/9/2015 về việc thu hồi đất, diện tích thu hồi tại thửa số 182, là 519,3 m2 và thửa số 171 là 323,8m2, diện tích còn lại của thửa 171, tờ bản đồ số 72, diện tích 190 m2. Tổng số tiền bồi thường giải phóng mặt bằng là 189.615.460 đồng; người nhận tiền bồi thường là bà Đoàn Thị H, trong đó có 5.564.460 đồng là tiền hòa màu của bà H trên đất.
Diện tích ruộng còn lại hiện bà H đang quản lý, sử dụng các thửa 944, tờ bản đồ 12; thửa số 696, tờ bản đồ 18; diện tích đất còn lại của thửa 536, tờ bản đồ 18. Bà C đang quản lý sử dụng thửa số 943, tờ bản đồ số 12 và thửa số 310, tờ bản đồ số 18.
[4]. Bản án sơ thẩm đã xác định đúng các tài sản chung của cụ Q, cụ V4, di sản thừa kế do cụ V4 để lại và chia tài sản chung của cụ Q, cụ V4, chia di sản của cụ V4 để lại cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ gồm cụ Q và 09 người con còn sống theo yêu cầu khởi của cụ Q, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà H là đúng pháp luật.
Về số tiền 5.564.460 đồng bồi thường hoa màu trên hai thửa đất bị thu hồi năm 2015 gồm thửa số 182, diện tích 519,3 m2 và thửa số 171, diện tích 323,8m2, diện tích còn lại của thửa 171, tờ bản đồ số 72, diện tích 190 m2 Tòa án cấp sơ thẩm xác định là thuộc quyền sở hữu của bà H là có căn cứ, số tiền bồi thường giá trị đất còn lại là 184.051.000 đồng thuộc quyền sở hữu của 04 thành viên gồm cụ Q, cụ V4, bà c, bà H. Ông B không có định suất ruộng nên không được chia số tiền bồi thường đất mà được hưởng kỷ phần di sản của cụ V4 để lại là có căn cứ.
Do hiện trạng, vị trí thửa đất khi chia bàng hiện vật phải có lối đi nên Tòa án cấp sơ thẩm quyết định buộc ông B phải tháo dỡ cổng và dành làm lối đi vào các thửa đất bên trong là có căn cứ.
Đối với yêu cầu thanh toán số tiền sửa cổng, cắt cây xà cừ của ông B: do ông B không làm thủ tục phản tố theo quy định nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét, giải quyết trong vụ án này là có căn cứ. Sau này ông B có yêu cầu thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.
Do vậy, Toà cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Q; chấp nhận yêu cầu độc lập của bà H và phân chia tài sản chung, chia di sản thừa kế của cụ V4 để lại theo quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ.
Đối với diện tích ruộng là di sản của cụ V4, sau khi khởi kiện, cụ Triệu Thị Q đã có đơn tự nguyện rút yêu cầu này, Tòa án sơ thẩm đình chỉ giải quyết yêu cầu chia di sản là định suất ruộng của cụ V4 để lại của cụ Q là có căn cứ.
[5]. Xét kháng cáo của cụ Q, ông B, bà C, HĐXX thấy:
[5.1]. Xét kháng cáo của cụ Triệu Thị Q: sau khi kháng cáo, ngày 10/10/2023, cụ Q (do ông Ngô Đình M đại diện theo ủy quyền) có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Xét thấy, việc rút kháng cáo của cụ Q là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc nên cần chấp nhận. Do vậy cần đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của cụ Q.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Đoàn Thị C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, được coi là từ bỏ việc kháng cáo. HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà C.
[5.2]. Xét kháng cáo của ông B: tại cấp phúc thẩm ông B không cung cấp được tài liệu chứng cứ khác để chứng minh cho kháng cáo của mình nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông B.
[6]. Về án phí dân sự phúc thẩm: do cụ Q là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm; ông B, bà C mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điểm đ Điều 12, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[7]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 2 Điều 289, khoản 3 Điều 296, khoản 1 Điều 308, Điều 312 và Điều 313 của Bộ Luật tố tụng dân sự. Xử:
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của cụ Triệu Thị Q và kháng cáo của bà Đoàn Thị C.
- Không chấp nhận kháng cáo của ông Đoàn Đắc B. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 53/2023/DS-ST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
2. Về án phí: cụ Triệu Thị Q được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm; ông Đoàn Đắc B và bà Đoàn Thị C mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Ông B được trừ vào 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0005711 ngày 28/9/2023; bà C được trừ vào 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0005716 ngày 02/10/2023 đều của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 19/2024/DS-PT về tranh chấp chia tài sản chung, chia di sản thừa kế
Số hiệu: | 19/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về