TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 2701/2023/KDTM-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ TRANH CHẤP CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Ngày 28 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm thụ lý số 283/2022/TLST-KDTM ngày 30 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2813/2023/QĐXXST-KDTM ngày 01 tháng 6 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 3690/2023/QĐH-KDTM ngày 30 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty Cổ phần X.
Trụ sở: 508, lầu 5, tòa nhà trung tâm K, số G, T, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Lâm Q là người đại diện theo ủy quyền số 1310/2022/UQ-SM ngày 13/10/2022 (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
2. Bị đơn: Công ty TNHH T1.
Trụ sở: 6 Đường số H, khu phố A, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Đình P1 Địa chỉ: C Đường số A, khu phố C, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/11/2022 và lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng:
Ngày 01/02/2020, Công ty Cổ Phần X (gọi tắt Công ty X) và Công ty TNHH T1 (gọi tắt Công ty T1) có ký kết hợp đồng kinh tế số 0102/HĐBT/TN-2020 ngày 01/02/2020 về việc cung cấp, tiếp nhận Bê tông thương phẩm phục vụ cho Công trình: Nhà Trạm và Bể X N, Phường B - Quận B”. Thực hiện hợp đồng, Công ty X đã bàn giao hàng hóa với tổng số tiền là 396.630.000 đồng, Công ty T1 đã thanh toán số tiền 278.315.000 đồng. Tuy nhiên Công ty T1 không thực hiện thanh toán đúng theo thỏa thuận, hai bên có lập biên bản đối chiếu công nợ xác nhận đến ngày 20/5/2020, xác nhận Công ty T1 còn nợ Công ty X số tiền nợ gốc là 118.315.000 đồng. Sau đó, Mặc dù đã nhiều lần yêu cầu thanh toán tuy nhiên Công ty T1 vẫn còn nợ lại số tiền là 58.305.000 đồng. Nay nguyên đơn Công ty X khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty T1 thanh toán số tiền nợ gốc là 58.305.000 đồng đồng và tiền lãi tạm tính đến ngày 07/11/2022 số tiền là 15.013.538 đồng.
Ngày 28/7/2023, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xét xử vắng mặt và đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, cụ thể chỉ yêu cầu yêu cầu bị đơn thanh toán khoản nợ gốc là 58.305.000 đồng, không yêu cầu phải thanh toán tiền lãi chậm.
Bị đơn Công ty T1 vắng mặt dù đã được triệu tập hợp lệ.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên còn vi phạm về thời hạn đưa vụ án ra xét xử.
Về nội dung:
- Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả số tiền nợ gốc còn lại là 58.305.000 đồng.
- Do nguyên đơn có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện đối với phần lãi chậm thanh toán nên đề nghị Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Đây là tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán hàng hóa Tranh được quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có địa chỉ trụ sở tại thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về thủ tục tố tụng: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn Công ty TNHH T1 đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[3.1] Xét yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán khoản nợ gốc còn lại là 58.305.000 đồng đồng, Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ Hợp đồng kinh tế số 0102/HĐBT/TN-2020 ngày 01/02/2020 được ký kết giữa Công ty cổ Phần X và Công ty TNHH TI thì giữa nguyên đơn và bị đơn đã giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Căn cứ vào biên bản đối chiếu công nợ ngày 20/5/2020, thể hiện Công ty T2 đã cung cấp cho Công ty T1 hàng hóa là Bê tông thương phẩm phục vụ cho Công trình: Nhà Trạm và Bể X N, Phường B - Quận B”, giá trị hàng hóa đã giao là 396.630.000 đồng, phía Công ty T1 đã thanh toán số tiền tới 278.315.000 đồng. Tuy nhiên Công ty T1 không thực hiện thanh toán đúng theo thỏa thuận, hai bên có lập biên bản đối chiếu công nợ xác nhận đến ngày 20/5/2020, xác nhận Công ty T1 còn nợ Công ty X số tiền nợ gốc là 118.315.000 đồng. Sau đó, Mặc dù đã nhiều lần yêu cầu thanh toán tuy nhiên Công ty T1 vẫn còn nợ lại số tiền là 58.305.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn để làm rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng phía bị đơn đều vắng mặt, không cung cấp thêm chứng cứ, tài liệu khác thể hiện đã thực hiện thanh toán đầy đủ cho nguyên đơn. Do bị đơn vị phạm nghĩa vụ thanh toán nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Bị đơn thanh toán tiền mua hàng hóa là có cơ sở. Căn cứ Điều 50 của Luật Thương mại năm 2005 bị đơn có nghĩa vụ thanh toán số tiền mua hàng hóa còn thiếu cho nguyên đơn, Hội đồng xét xử căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ có cơ sở chấp nhận yêu cầu nguyên đơn về việc buộc bị đơn thanh toán số tiền nợ gốc còn lại là 58.305.000 đồng.
[3.2] Đối với yêu cầu buộc thanh toán tiền nợ lãi chậm thanh toán tạm tính đến ngày 07/11/2022 số tiền là 15.013.538 đồng. Ngày 28/7/2023 người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin rút yêu cầu. Việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ giải quyết.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ Phần X buộc Công ty TNHH T1 phải thanh toán số tiền nợ gốc còn lại là 58.305.000 đồng.
[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn Công ty Cổ Phần X được chấp nhận nên bị đơn Công ty TNHH T1 phải chịu tiền án phí. Công ty Cổ Phần X được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147; Điều 207; Điều 227; Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Căn cứ vào các Điều 24, 50, 306 Luật Thương mại;
- Căn cứ vào Điều 26 Luật Thi hành án Dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - Công ty Cổ Phần X:
Buộc Công ty TNHH T1 có trách nhiệm trả cho Công ty Cổ Phần X số tiền nợ gốc là 58.305.000 đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty TNHH T1 có trách nhiệm trả tiền lãi chậm thanh toán.
2. Về án phí: Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 3.000.000 (ba triệu) đồng Công ty TNHH T1 phải chịu, Công ty TNHH T1 chưa nộp tiền án phí.
Công ty Cổ Phần X được nhận lại tiền tạm ứng án phí 3.000.0000 (ba triệu) đồng theo Biên lai thu số AA/2022/0007085 ngày 28/11/2022 do Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh lập.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 2701/2023/KDTM-ST về tranh chấp chấp hợp đồng mua bán hàng hóa
Số hiệu: | 2701/2023/KDTM-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 28/07/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về