TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 197/2023/HNGĐ-ST NGÀY 05/09/2023 VỀ TRANH CHẤP CẤP DƯỠNG, THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Ngày 05 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 161/2023/TLST- HNGĐ ngày 02/3/2023 về tranh chấp “Cấp dưỡng, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 201/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Điểm Thị Cẩm H, sinh năm: 1998;
Địa chỉ: Số C đường K, Phường B, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
* Bị đơn: Anh Phan Hữu N, sinh năm: 1988;
Địa chỉ: Số Q, Ấp S, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
(có mặt chị H và anh N)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện ngày 02/3/2023 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Điểm Thị Cẩm H trình bày: Chị và anh Phan Hữu N đã ly hôn năm 2020. Thời điểm ly hôn chị không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con, nay chị khởi kiện yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi cháu Phan Quốc A, sinh ngày 04/02/2018 mỗi tháng 3.000.000 (ba triệu) đồng cho đến khi con thành niên.
* Bị đơn anh Phan Hữu N trình bày: Anh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị H. Anh N có đơn phản tố yêu cầu giao quyền trực tiếp nuôi con là cháu Phan Quốc A, sinh ngày 04/02/2018 cho anh nuôi dưỡng đến khi trưởng thành, anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.
Hiện nay anh có thu nhập ổn định lương 15.000.000 đồng/tháng, có chỗ ở ổn định không phải ở trọ. Hơn nữa trong thời gian chị H nuôi con luôn cố tình ngăn cản anh thăm nom con. Nếu chị H có đủ điều kiện nuôi con thì không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng.
* Tại phiên tòa, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh N vẫn giữa nguyên yêu cầu phản tố.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng quy định.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của chị H là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H buộc anh N cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng, không chấp nhận yêu cầu phản tố của anh N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày và phát biểu tranh luận của đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Ngày 02/3/2023 chị H khởi kiện yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi con trưởng thành; Anh N có đơn phản tố yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án tranh chấp “Cấp dưỡng, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” được quy định tại khoản 3, khoản 5 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 84, Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình. Bị đơn anh Phan Hữu N cư trú tại số Q, Ấp S, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho theo quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 289/2020/QĐST-HNGĐ ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho ghi nhận, anh N và chị H thỏa thuận chị H là người trực tiếp nuôi cháu Phan Quốc A, sinh ngày 04/02/2018 sau khi ly hôn, anh N không phải cấp dưỡng nuôi con. Nay chị H yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi trưởng thành.
Điều 110 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con”. Do đó việc chị H yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con là đúng quy định pháp luật. Xét thấy, mức cấp dưỡng 3.000.000 đồng mà chị H đề nghị là có căn cứ bởi. Theo như bảng tự khai cũng như lời trình bày tại phiên tòa, anh N khai thu nhập hàng tháng của anh N là 15.000.000 đồng, có xác nhận nơi anh N làm việc. Như vậy, mức cấp dưỡng 3.000.000 đồng là phù hợp so với mức thu nhập hàng tháng của anh N theo quy định tại Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về yêu cầu phản tố của bị đơn: Anh N có đơn phản tố yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con từ chị H sang anh N, anh N không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy, cháu Phan Quốc A, sinh ngày 04/02/2018 đã sống chung với mẹ từ nhỏ cho đến nay, nên việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý bình thường của con, con còn nhỏ tuổi nên sống chung gần gủi với mẹ sẽ đảm bảo cho sự phát triển toàn diện hơn cho con.
Anh N trình bày sau khi ly hôn, chị H luôn cố tình ngăn cản không cho anh và bà nội thăm non con nên anh yêu cầu thay đổi người nuôi con là không có căn cứ. Bởi tại Tòa cũng như hồ sơ thể hiện, anh có rước cháu Quốc A về nhà chăm sóc. Anh N còn nộp giấy xác nhận của những người hàng xóm để chứng minh anh N là người thường xuyên chăm sóc con sau khi anh chị ly hôn. Những lời xác nhận thể hiện hàng xóm nắm bắt thông tin do anh N tâm sự lại, như vậy những lời khai này không khách quan. Tại phiên tòa anh N vẫn thừa nhận chị H có cho anh thăm rước con nhưng có lúc không. Điều này thể hiện là chị Hg vẫn cho anh rước con chứ không phải ngăn cản anh thăm non con nhưng anh trình bày. Như đã phân tích ở trên việc thay đổi người trực tiếp nuôi con khi con còn nhỏ sẽ làm ảnh hưởng đến tâm sinh lý bình thường của con, nên yêu cầu của anh N không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho là có cơ sở và phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.
[3] Về chi phí tố tụng: Chi phí xác minh là 1.000.000 đồng, do yêu cầu khởi kiện của chị H được chấp nhận, yêu cầu phản tố của anh N không được chấp nhận nên anh N phải chịu số tiền trên. Anh N đã nộp tạm ứng 1.000.000 đồng xem như đã nộp xong.
[4] Về án phí: Anh N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ các Điều 84, 107, 110, 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Điểm Thị Cẩm H.
Buộc anh Phan Hữu N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Phan Quốc A, sinh ngày 04/02/2018 mỗi tháng 3.000.000 đồng, cho đến khi cháu Phan Quốc A tròn 18 tuổi.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị H có đơn yêu cầu thi hành án đối với số tiền cấp dưỡng, nếu anh N chậm thi hành án, thì hàng tháng còn phải chịu số tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của anh Phan Hữu N về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
3. Về chi phí tố tụng: Chi phí xác minh là 1.000.000 đồng anh Phan Hữu N phải chịu, anh N đã nộp tạm ứng 1.000.000 đồng xem như đã nộp xong.
4. Về án phí: Anh Phan Hữu N phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con và 300.000 đồng án phí đối với yêu cầu không được Tòa án chấp nhận.
Anh N đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0023708 ngày 18/4/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, nên còn phải nộp tiếp số tiền là 300.000 đồng.
Hoàn lại cho chị Điểm Thị Cẩm H 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0023520 ngày 02/3/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Điểm Thị Cẩm H và anh Phan Hữu N có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 197/2023/HNGĐ-ST về tranh chấp cấp dưỡng, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 197/2023/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về