TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 08/2024/DS-ST NGÀY 19/03/2024 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI SỨC KHỎE
Ngày 19 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 409/2023/TLST – DS, ngày 16 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST- DS ngày 28 tháng 02 năm 2024 giữa:
Nguyên đơn: Bà Cao Hồng T, sinh năm 1980 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Bị đơn: Bà Hồ Thị Bé S, sinh năm 1988 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bà Cao Hồng T là nguyên đơn trình bày: Khoản 16 giờ ngày 27/9/2022 tại nhà bà ở Ấp 4, xã T, huyện C, chồng bà Bé S là Trịnh Vũ T1 chở bà Bé S đến nhà bà, vì cho rằng bà thiếu nợ 10.000.000 đồng. Khi đó, bà có cho bà Bé S biết là bà không có thiếu tiền bà Bé S và kêu bà Bé S về nhưng bà Bé S không về mà kiếm chuyện chưởi mắn và dùng điện thoại đánh bà trúng nhiều chỗ vào đầu, bị chảy máu miệng, môi, mắt phải, cằm và bả vai trái và xé rách áo.
Nay bà yêu cầu bà Bé S bồi thường cho bà tổng số tiền là 66.606.867 đồng, bao gồm các khoản như sau:
1. Tiền cấp cứu, tiền thuốc, xét nghiệm, giường bệnh, khám vết thương, khám dịch vụ CT, tiền chụp cắt lớp vi tính sọ não từ ngày 27/9/2022 đến ngày 17/10/2022 là 15.756.867 đồng;
2. Tiền thuê xe (nhập viện và xuất viện); thuê xe tái khám (đi và về); tiền thuê xe ôm chụp CT phòng khám Đăng Tuyền (TP Trà Vinh) là 3.000.000 đồng.
3. Tiền ngày công lao động từ ngày nằm viện đến ngày xuất viện (từ ngày 27/9/2022 đến ngày 06/10/2022) là 10; 11 ngày dưỡng thương không lao động được từ ngày 07/10/2022 đến ngày 17/10/2022); tổng cộng 21 ngày x 150.000đồng/ ngày = 3.150.000 đồng;
4. Tiền bù đắp tổn thất tinh thần là 30 tháng tháng lương x 1.490.000 đồng/tháng = 44.700.000 đồng.
Bị đơn bà Hồ Thị Bé S trình bày như sau: Bà có đến quán của bà T đòi tiền 10.000.000 đồng do chị ruột bà tên Hồ Thị Bé Năm hỏi mượn tiền của bà cho bà T mượn nhưng lâu quá không thấy trả nên bà mới đến đòi tiền chứ không phải đến kiếm chuyện đánh nhau. Tuy nhiên, khi đó bà T không thừa nhận mượn tiền của bà nên cả hai có cự cải nhau, khi đó bà cầm điện thoại quơ đại để đẩy bà T ra nhưng lúc đó không biết trúng chỗ nào trên người bà T và bà chấp nhận theo yêu cầu của bà T các khoản như sau:
1. Tiền cấp cứu, tiền thuốc, xét nghiệm, giường bệnh, khám vết thương, khám dịch vụ CT, tiền chụp cắt lớp vi tính sọ nảo từ ngày 27/9/2022 đến ngày 17/10/2022 là 15.756.867 đồng;
2. Tiền thuê xe (nhập viện và xuất viện); thuê xe tái khám (đi và về); tiền thuê xe ôm chụp CT phòng khám Đăng Tuyền (TP Trà Vinh) là 3.000.000 đồng;
3. Tiền ngày công lao động từ ngày nằm viện đến ngày xuất viện (từ ngày 27/9/2022 đến ngày 06/10/2022) là 10; 11 ngày dưỡng thương không lao động được từ ngày 07/10/2022 đến ngày 17/10/2022); tổng cộng 21 ngày x 150.000đồng/ ngày = 3.150.000 đồng;
4. Riêng khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần bà chỉ chấp nhận 03 tháng bằng 4.470.000 đồng.
Tại phiên tòa Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè trình bày quan điểm giải quyết vụ án:
Về việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký từ khi thụ lý giải quyết vụ án đến khi Hội đồng xét xử xét xử vụ án đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng. Các đương sự đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích các chứng cứ có trong vụ án cũng như quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Xét thấy, bà T yêu cầu bà Bé S trả các khoản tiền gồm: Tiền điều trị bệnh là 15.756.867 đồng; tiền thuê xe đi điều trị bệnh là 3.000.000 đồng; tiền ngày công lao động 21 ngày x 150.000đồng/ngày = 3.150.000 đồng và được bà Bé S đồng ý nên ghi nhận sự tự nguyện này của bà Bé S. Riêng tiền bù đắp tổn thất tinh thần bà T yêu cầu bà Bé S là 30 tháng tháng lương x 1.490.000 đồng/tháng = 44.700.000 đồng là quá cáo so với quy định pháp luật.
Trong khi đó tỷ lệ thương Cơ quan cảnh sát điều tra huyện Cầu Kè kết luận “Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 03%” và hành vi gây thương tích của bà Bé S vào ngày 27/9/2022 không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên không khởi tố vụ án hình sự. Do đó, căn cứ vào Điều 290 của Bộ luật dân sự năm 2015 chấp nhận mức bồi thường tổn thất tin thần theo như ý kiến của bà Bé S bằng 03 tháng lương cơ bản bằng 4.470.000 đồng là phù hợp theo quy định pháp luật. Do đó, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn bồi thường cho nguyên đơn các khoản tiền điều trị bệnh, tiền thuê xe đều trị bệnh (chuyến đi và về), tiền ngày công lao động và tiền tổn thất tin thần với tổng số tiền là 26.376.867 đồng. Ngoài ra, Vị kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà T yêu cầu bà Bé S bồi thường thiệt hại sức khỏe do bị bà Bé S xâm phạm nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe” theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn trong vụ án là bà Hồ Thị Bé S có hộ khẩu thường trú tại huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại các Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Bà T yêu cầu bà Bé S trả các khoản tiền bồi thường do bị bà Bé S đánh vào ngày 27/9/2022 gồm: Tiền điều trị bệnh là 15.756.867 đồng; tiền thuê xe đi điều trị bệnh là 3.000.000 đồng; tiền ngày công lao động 21 ngày x 150.000đồng/ngày = 3.150.000 đồng và bù đắp tổn thất tinh thần là 30 tháng tháng lương x 1.490.000 đồng/tháng = 44.700.000 đồng; tổng cộng 66.571.867 đồng. Bị đơn bà Bé S thừa nhận có gây thương tích cho bà T và thống nhất bồi thường các khoản gồm: Tiền điều trị bệnh là 15.756.867 đồng; tiền thuê xe đi điều trị bệnh là 3.000.000 đồng; tiền ngày công lao động 21 ngày x 150.000đồng/ngày = 3.150.000 đồng. Riêng khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần bà chỉ chấp nhận 03 tháng lương cơ bản bằng 4.470.000 đồng.
[3] Xét thấy, ngày 27/9/2022 do có mâu thuẫn trong tiền bạc và xảy ra có cự cải nên bà Bé S đã gây thương tích cho bà T; Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Cầu Kè đã Thông báo về việc không khởi tố vụ án hình sự ngày 05/02/2023 như sau: “Hành vi gây thương tích cho bà Cao Hồng T với tỷ lệ thương tích là 03% (ba phần trăm) của bà Hồ Thị Bé S vào ngày 27/9/2022 tại Ấp 4, xã T, huyện C không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, quy định tại khoản 2 Điều 157 của Bộ luật tố tụng hình sự”. Do dó, bà T khởi kiện bà Bé S yêu cầu bồi thường thiệt hại sức khỏe do bà Bé S xâm phạm; bà Bé S thừa nhận thương tích của bà T do mình gây ra nên đồng ý bồi thường các khoản tiền điều trị bệnh, đi thuê xe đi viện và tiền ngày công lao động như yêu cầu cầu của bà T với số tiền 21.871.867. Việc bà Bé S đồng ý bồi thường các khoản này cho bà T là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên ghi nhận sự tự nguyện này của bà Bé S.
[4] Ngoài ra, bà T yêu cầu bà Bé S bồi thường tiền tổn thất tin thần bằng 30 tháng tháng lương cơ bản, với mức 01 tháng lương là 1.490.000 đồng x 30 tháng = 44.700.000 đồng. Xét thấy, bà T yêu cầu bà Bé S bồi thường tổn thất tin thần bằng 30 tháng lương cơ bản là không có cơ sở chấp nhận. Bởi vì, căn cứ vào tỷ lệ thương tích do cơ quan điều tra Thông báo kết luận giám định giám định của bà Cao Hồng T với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 3% nên căn cứ vào khoản 2 Điều 590 của Bộ luật dân sự quy định “…mức tối đa do một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định”.
Do đó, việc bà Bé S đồng ý bồi thường tổn thất tin thần cho bà T bằng 03 tháng lương cơ sở bằng 4.470.000 đồng là hoàn phù hợp nên chấp nhận.
[5] Từ những nhận đinh nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà T; buộc bà Bé S phải bồi thường cho bà T các khoản gồm: Tiền điều trị bệnh là 15.756.867 đồng; tiền thuê xe đi điều trị bệnh là 3.000.000 đồng; tiền ngày công lao động 21 ngày x 150.000đồng/ ngày = 3.150.000 đồng và bù đắp tổn thất tinh thần là 4.470.000 đồng là phù hợp theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật dân sự.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.
[7] Về quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cầu Kè là có căn cứ và đúng pháp luật nên được chấp nhận.
[8] Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 161; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 584, 585, 590 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Cao Hồng T Buộc bà Hồ Thị Bé S phải có nghĩa vụ trả cho bà Cao Hồng T tổng số tiền 26.376.867 đồng (Hai mươi sáu triệu ba trăm bảy mươi sáu nghìn tám trăm sáu mươi bảy đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
2. Về án phí: Buộc bà Hồ Thị Bé S phải chịu 1.318.843 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
3. Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt thời hạn trên được tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 08/2024/DS-ST về tranh chấp bồi thường thiệt hại sức khỏe
Số hiệu: | 08/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về