TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 132/2022/DS-PT NGÀY 28/07/2022 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 28/7/2022 tại trụ sở TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 90/2021/TLPT-DS ngày 19/5/2022 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” do có kháng cáo của bị đơn.
Nguyên đơn: Ông Nông Văn D; sinh năm 1993. (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Đình B; sinh năm 1983. (có mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố 9, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk Chỗ ở hiện nay: Số nhà 865A, đường H, phường T, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk (Theo văn bản uỷ quyền ngày 11 tháng 11 năm 2021) Bị đơn: Ông Phùng Văn D1; sinh năm: 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nông Văn N; sinh năm 1960 (có mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố 3, thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ông Nông Văn D, Người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Đình B trình bày:
Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 13 tháng 3 năm 2019, tại thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, ông Phùng Văn D1 dùng cây cà phê, dài khoảng 1,5m, đường kính khoảng 02cm đến 03cm đánh liên tục vào đầu ông Nông Văn D. Ông D đưa tay lên đỡ thì bị ông D1 đánh nhiều cái vào tay và nhiều cái vào đầu làm ông D bất tỉnh, được người nhà đưa đi sơ cứu tại Trạm y tế xã. Sau đó, ông D điều trị tại Bệnh viện N từ 15 đến ngày 20 tháng 3 năm 2019 với chuẩn đoán của Bệnh viện thì ông D bị chấn thương đầu. Khi về nhà, ông D tiếp tục điều trị hết 07 ngày và dưỡng thương 23 ngày.
Tại quyết định không khởi tố vụ án hình sự số 06/QĐ-CQĐT ngày 03/6/2020 của Cơ quan CSĐT công an huyện K đã kết luận: “Không khởi tố vụ án hình sự đối với vụ cố ý gây thương tích xảy ra ngày 13/3/2019 tại thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Ngày 15/11/2021 ông Nông Văn D khởi kiện dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về việc yêu cầu ông Phùng Văn D1 bồi thường thiệt hại gồm các khoản sau:
Tiền xe đi lại: 03 lần x 1.100.000đ/lần = 3.300.000đ; Tiền chụp CT: 536.000đ;
Tiền thuốc theo hoá đơn: 1.174.000đ; Tiền viện phí: Do bảo hiểm thanh toán nên không kê khai.
Sau khi xảy ra sự việc, ông D1 không hỏi han, bồi thường cho ông D bất kỳ khoản tiền nào. Hiện nay, tinh thần ông D rất hoảng loạn, sức khoẻ giảm sút, vì vậy ông D khởi kiện yêu cầu ông D1 bồi thường tổng số tiền 40.210.000đ. Bao gồm các khoản tiền sau: Tiền xe đi lại: 03 lần x 1.100.000đ/lần = 3.300.000đ; Tiền chụp CT:
536.000đ; Tiền thuốc theo hoá đơn: 1.174.000đ; Tiền thu nhập của ông D bị mất trong thời gian điều trị tại bệnh viện: 07 ngày x 300.000đ/ngày/người = 2.100.000đ; Tiền thu nhập bị mất của ông D trong thời gian nghỉ phục hồi sức khoẻ và điều trị tại nhà: 30 ngày x 300.000đ/ngày/người. = 9.000.000đ; Tiền mất thu nhập của người chăm sóc ông D trong thời gian ông D điều trị tại bệnh viện: 07 ngày x 300.000đ/ngày/người = 2.100.000đ. Tiền bỗi dưỡng phục hồi sức khoẻ: 5.000.000đ; Tiền tổn thất về mặt tinh thần: 10 tháng lương cơ sở x 1.490.000đ/tháng = 14.900.000đ.
Quá trình giải quyết vụ án, ông D1 đồng ý bồi thường cho ông D tổng số tiền:
16.535.000đ, gồm các khoản: Tiền xe: 2.300.000đ; Tiền chụp CT: 536.000đ; Tiền thuốc theo hoá đơn: 1.174.000đ; Tiền thu nhập của ông D bị mất trong thời gian điều trị bệnh tại bệnh viện: 1.400.000đ; Tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ: 3.000.000đ; Tiền tổn thất về mặt tinh thần: 3.725.000đ và được ông D chấp nhận. Nhưng sau đó, ông D1 thay đổi nội dung thoả thuận.
Tại phiên toà, đại diện uỷ quyền của ông D tiếp tục giữ nguyên nội dung khởi kiện của ông D và ý kiến: Trường hợp ông D1 đồng ý với mức bồi thường như đã thoả thuận là 16.535.000đ, thì ông D đồng ý. Trường hợp ông D1 không đồng ý, thì ông D đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật và buộc ông D1 bồi thường cho ông D số tiền 40.210.000đ với các khoản nêu trên. Về án phí và chi phí tố tụng, ông D đề nghị Toá án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ngoài ra ông D không yêu cầu, đề nghị gì thêm.
Tại bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông Phùng Văn D1 trình bày:
Ông thừa nhận giữa ông và ông D có mâu thuẫn với nhau về việc khơi nước vào ruộng/rẫy nên vào khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 13 tháng 3 năm 2019, tại thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, khi thấy ông D đang phá đập nước của gia đình thì hai bên lời qua tiếng lại, xô xát nhau. Vì vậy, ông dùng chồi cà phê, dài khoảng 1,5m, đường kính khoảng 02 đến 03 cm đánh vào người ông D. Sau đó, ông D dùng cuốc bổ ông nhưng không trúng.
Quá trình làm việc ông đã đồng ý bồi thường cho ông D số tiền 16.535.000đ. Nhưng xét thấy ông D không bị thương tích, ông D là người phá ruộng nhà ông và ông đã bị xử phạt hành chính nên ông thay đổi nội dung thoả thuận.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 16/2022/DSST ngày 30/3/2022 của TAND huyện Krông Năng đã quyết định: Căn cứ các Điều 584, Điều 585 và Điều 590 của Bộ luật dân sự.
Áp dụng Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nông Văn D, buộc ông Phùng Văn D1 bồi thường cho ông Nông Văn D số tiền 15.535.000đ (mười lăm triệu, năm trăm ba mươi lăm nghìn đồng chẵn).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về lãi suất, án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 13/4/2022, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm: Nguyên đơn giữ yêu cầu khởi kiện, bị đơn giữ nguyên đơn kháng cáo, tuy nhiên các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, sửa Bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông năng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày của nguyên đơn và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy: [1] Về tố tụng: Bị đơn kháng cáo trong hạn luật định và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm hợp lệ. Vì vậy, kháng cáo của bị đơn được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là phù hợp với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Cụ thể là: Bị đơn ông Phùng Văn D1 chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ chi phí điều trị và tổn thất tinh thần, sức khẻo cho ông Nông Văn D với tổng số tiền là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, việc thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm đến điều cấm của luật và không trái đạo đước xã hội, vì vậy cần căn cứ Điều 300 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp.
[3] Về án phí: Căn cứ khoản 5 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Án phí dân sự sơ thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên cần xác định lại án phí dân sự sơ thẩm theo nội dung thỏa thuận.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Do các đương sự thỏa thuận về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm, nên bị đơn kháng cáo không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 300; khoản 2 Điều 308; của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
– Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số: 16/2022/DSST ngày 30/3/2022 của TAND huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm về việc giải quyế toàn bộ vụ án, cụ thể: Bị đơn ông Phùng Văn D1 chịu trách nhiệm bồi thường toàn bộ chi phí điều trị, tổn thất tinh thần và sức khẻ cho ông Nông Văn D với tổng số tiền là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Đièu 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Phùng Văn D1 phải chịu 500.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Hoàn trả lại cho ông Phùng Văn D1 số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí phúc thẩm mà ông Nông Minh Đ nộp thay ông D1 theo biên lai số 60AA/2021/0008945 ngày 21/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk và được khấu trừ vào số tiền án phí dân sự sơ thẩm mà ông D1 phải chịu.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 132/2022/DS-PT về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Số hiệu: | 132/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về