Bản án 30/2024/LĐ-ST về tranh chấp BHXH, đòi tiền lương, bồi thường chi phí đi lại

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC - TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 30/2024/LĐ-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TRANH CHẤP BHXH, ĐÒI TIỀN LƯƠNG, BỒI THƯỜNG CHI PHÍ ĐI LẠI

Ngày 29 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 397/2023/TLST-LĐ ngày 24 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp về BHXH, đòi tiền lương, bồi thường chi phí đi lại” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/QĐXXST-LĐ ngày 19 tháng 02 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2024/QĐST-LĐ ngày 11 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Ấp Đình, xã Th Ph, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Đoàn Hữu H, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Số X, ấp 3, xã Q, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An. (Giấy ủy quyền ngày 07/11/2023).

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần L.

Địa chỉ trụ sở chính: Lô D1a, Đường dọc 2, Khu Công nghiệp P, xã A, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: Ông Lê Th – Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: BHXH huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Địa chỉ trụ sở: Số 20, đường L, khu phố X, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: Bà Lê Thị Huỳnh H – Chức vụ: Giám đốc.

(Ông H và bà H có đơn xin vắng mặt, ông Th vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/7/2023, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th do người đại diện theo ủy quyền ông Đoàn Hữu H trình bày:

Ngày 24/6/2022, giữa bà Nguyễn Thị Th và Công ty Cổ phần L có ký Hợp đồng lao động số 00430/HĐLĐ/2022-2, loại hợp đồng lao động xác định thời hạn (từ ngày 24/6/2022 đến hết ngày 23/6/2023). Hợp đồng lao động thể hiện công việc phải làm, chế độ làm việc, mức lương, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Cổ phần L đã vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng và quy định pháp luật về lao động, cụ thể: Công ty không trả tiền lương tháng 12/2022, bà Th đã đóng BHXH đầy đủ cho Công ty nhưng từ tháng 7/2021 đến tháng 12/2022, Công ty không đóng BHXH cho bà Th. Do Công ty không trả lương, nên người lao động là bà Th đã nghỉ việc ở Công ty từ tháng 12/2022 đến nay. Mặc dù, bà Th nhiền lần yêu cầu Công ty chốt sổ Bảo hiểm nhưng đến nay Công ty vẫn không thực hiện. Theo văn bản xác nhận của BHXH huyện Bến Lức thì Công ty Cổ phần L còn nợ số tiền bảo hiểm là 22.503.467 đồng. Do đó, bà Th khởi kiện yêu cầu:

Buộc Công ty Cổ phần L phải đóng tiền bảo hiểm cho bà Nguyễn Thị Th từ tháng 7/2021 đến tháng 12/2022 với số tiền là 22.503.467 đồng.

Trả tiền lương tháng 12/2022 với số tiền là 4.500.000 đồng.

Bồi thường chi phí đi lại để yêu cầu Công ty thanh toán tiền lương và BHXH với số tiền là 10.000.000 đồng.

Ngày 20/02/2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Đoàn Hữu H rút lại yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Công ty Cổ phần L trả tiền lương tháng 12/2022 với số tiền là 4.500.000 đồng và bồi thường chi phí đi lại với số tiền là 10.000.000 đồng.

Theo Văn bản số 496/CV.BHXH ngày 22/12/2023 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan BHXH huyện Bến Lức do người đai diện theo pháp luật bà Lê Thị Huỳnh H trình bày:

BHXH huyện Bến Lức đã cung cấp số liệu BHXH của Công ty Cổ phần L và cung cấp thông tin tạm tính số phải đóng xác nhận chốt sổ BHXH của đơn vị nợ đến thời điểm hiện tại. BHXH không có yêu cầu khởi kiện gì trong vụ án. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. BHXH huyện Bến Lức đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Sự việc đã được Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và lập thủ tục hòa giải theo quy định của pháp luật nhưng bị đơn Công ty Cổ phần L vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71, 73, 85, 86 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung:

Về yêu cầu thanh toán khoản tiền nợ lương tháng 12/2022 và yêu cầu đòi bồi thường chi phí đi lại số tiền 10.000.000 đồng: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã có đơn thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện là rút lại 02 yêu cầu này, việc rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện nên đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu này.

Về yêu cầu đóng tiền BHXH: Xét thấy, Hợp đồng lao động số 00430/HĐLĐ/2022-2 ngày 24/6/2022 giữa bà Th và Công ty Cổ phần L là hợp đồng xác định thời hạn từ ngày 24/6/2022 đến hết ngày 23/6/2023. Theo quy định khoản 1 Điều 186 Bộ luật Lao động, Điều 2 và khoản 2 Điều 21 Luật BHXH thì người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia BHXH bắt buộc; hàng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm trích tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ BHXH. Việc Công ty L không thực hiện đóng BHXH cho bà Th là trái quy định của pháp luật nên cần phải buộc Công ty thực hiện đóng BHXH với số tiền gốc theo bảng tạm tính chốt sổ đến tháng 12/2023 của BHXH huyện Bến Lức là 19.752.683 đồng. Do Công ty L chậm đóng BHXH nên phải chịu lãi chậm đóng theo quy định của BHXH huyện Bến Lức, cụ thể theo bảng tạm tính đến tháng 12/2023 thì số lãi chậm đóng mà Công ty phải chịu là 2.750.784 đồng. Như vậy, Công ty L phải thực hiện đóng tiền BHXH còn nợ cho bà Th là 19.752.683 đồng gốc + 2.750.784 đồng lãi = 22.503.467 đồng. Công ty L còn phải chịu lãi trên số tiền bảo hiểm chậm đóng theo quy định của Luật BHXH, Luật bảo hiểm ý tế.

Từ những nhận định trên, căn cứ các Điều 6, 13, 20, 21, 168, 188 của Bộ luật Lao động 2019; các Điều 17, 18, 19, 21, 85, 86, khoản 2 Điều 89, Điều 122 Luật BHXH năm 2014 đề nghị đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn tranh chấp về BHXH, đòi tiền lương, bồi thường chi phí đi lại, bị đơn có trụ sở chính tại xã A, huyện Bến Lức, tỉnh Long An. Căn cứ khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp về BHXH, đòi tiền lương và bồi thường chi phí đi lại”. Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An có thẩm quyền giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[1.2] Về xác định tư cách đương sự: Theo đơn khởi kiện, bà Nguyễn Thị Th khởi kiện tranh chấp về BHXH, đòi tiền lương và bồi thường chi phí đi lại nên được xác định là nguyên đơn. Căn cứ khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án xác định Công ty Cổ phần L là bị đơn. BHXH huyện Bến Lức là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Việc ủy quyền của các đương sự hợp lệ nên được chấp nhận.

[1.3] Về việc vắng mặt đương sự: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Đoàn Hữu H, BHXH huyện Bến Lức vắng mặt có đơn xin vắng mặt. Bị đơn Công ty Cổ phần L đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án vắng mặt các đương sự.

[1.4] Về việc rút một phần yêu cầu khởi kiện:

Ngày 20/02/2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút lại yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Công ty Cổ phần L trả tiền lương tháng 12/2022 cho bà Th với số tiền là 4.500.000 đồng và bồi thường chi phí đi lại với số tiền là 10.000.000 đồng. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện. Căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện mà bà Th đã rút.

[2] Về nội dung:

Xét yêu cầu đóng tiền bảo hiểm còn nợ của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th: [2.1] Theo hồ sơ thể hiện, ngày 24/6/2022, giữa bà Nguyễn Thị Th và Công ty Cổ phần L có ký Hợp đồng lao động số 00430/HĐLĐ/2022-2, loại hợp đồng lao động xác định thời hạn (từ ngày 24/6/2022 đến hết ngày 23/6/2023). Tại Điều 3 Hợp đồng lao động có thỏa thuận “…về mức lương chính hoặc tiền công; phụ cấp;

tiền thưởng; chế độ nâng lương; về BHXH và bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tham gia trích đóng hàng tháng từ tiền lương…”. Do đó, có căn cứ xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có ký kết hợp đồng lao động và thỏa thuận về tiền lương, về mức đóng bảo hiểm theo quy định Bộ luật Lao động 2019, Luật BHXH năm 2014.

Hợp đồng lao động giữa Công ty L và bà Th có hiệu lực pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

[2.2] Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Đoàn Hữu H trình bày, trong quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty Cổ phần L đã vi phạm các thỏa thuận trong hợp đồng và quy định pháp luật về lao động, cụ thể Công ty không đóng BHXH cho bà Th từ tháng 7/2021 đến tháng 12/2022. Do đó, bà Th khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần L phải đóng tiền bảo hiểm cho bà Th với số tiền là 22.503.467 đồng. Bị đơn Công ty Cổ phần L vắng mặt và không cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà Th về việc nợ tiền bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 21 của Luật BHXH, thì trách nhiệm của người sử dụng lao động phải đóng BHXH theo quy định của pháp luật. Căn cứ Công văn số 496/CV-BHXH ngày 22/12/2023 của BHXH huyện Bến Lức thì BHXH huyện Bến Lức xác định Công ty Cổ phần L có tham gia bảo hiểm theo Số sổ bảo hiểm là 8021954357 cho bà Th gồm các khoản BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì Công ty không đóng bảo hiểm đầy đủ cho bà Th. Cụ thể, từ tháng 7/2021 đến tháng 12/2023 thì Công ty Cổ phần L còn nợ BHXH huyện Bến Lức tổng số tiền chậm đóng và tiền lãi chậm đóng là 22.503.467 đồng. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Th về việc buộc Công ty Cổ phần L có nghĩa vụ đóng BHXH với tổng số tiền bảo hiểm chậm đóng và tiền lãi chậm đóng đến tháng 12/2023 là 22.503.467 đồng là có căn cứ chấp nhận.

[3] Từ những phân tích trên, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc đóng tiền BHXH và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc Công ty Cổ phần L phải chịu án phí không có giá ngạch là 300.000 đồng đối với yêu cầu thực hiện nghĩa vụ đóng tiền bảo hiểm còn nợ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 32, 35, 39, 227, 244, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 6, 13, 20, 21, 168, 188 Bộ luật Lao động 2019; các Điều 17, 18, 19, 21, 85, 86, 89, 122 Luật BHXH năm 2014; các Điều 12, 14, 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th đối với bị đơn Công ty Cổ phần L về việc yêu cầu trả tiền lương tháng 12 năm 2022 với số tiền là 4.500.000 đồng và bồi thường chi phí đi lại số tiền là 10.000.000 đồng.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Th đối với bị đơn Công ty Cổ phần L về việc tranh chấp BHXH.

Buộc Công ty Cổ phần L có nghĩa vụ nộp tiền BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp còn nợ vào tài khoản thu của cơ quan BHXH huyện Bến Lức để chốt sổ BHXH cho bà Nguyễn Thị Th số tiền là 22.503.467 đồng. Trong đó, số tiền chậm đóng là 19.752.683 đồng, lãi chậm đóng tạm tính đến tháng 12/2023 là 2.750.784 đồng.

Công ty Cổ phần L còn phải chịu tiền lãi trên số tiền BHXH chậm đóng theo quy định của Luật BHXH, Luật Bảo hiểm y tế.

3. Về án phí lao động sơ thẩm: Buộc Công ty Cổ phần L phải chịu 300.000 đồng án phí lao động sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 30/2024/LĐ-ST về tranh chấp BHXH, đòi tiền lương, bồi thường chi phí đi lại

Số hiệu:30/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 29/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;