TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN LỨC, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 75/2024/LĐ-ST NGÀY 12/09/2024 VỀ TRANH CHẤP BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2024/TLST-LĐ ngày 04 tháng 7 năm 2024 tranh chấp “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 73/2024/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 8 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 43/2024/QĐST-LĐ ngày 23 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Huỳnh Tấn T, sinh năm 1993; Địa chỉ: Ấp I, xã L, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Đoàn Hữu H, sinh năm 1986; Địa chỉ: Số D ấp C, xã Q, huyện T, tỉnh Long An. (Theo giấy ủy quyền ngày 20/6/2024)
- Bị đơn: Công ty Cổ phần L (gọi tắt Công ty L); Địa chỉ trụ sở chính: Lô D 1a, đường D, Khu Công Nghiệp P, xã A, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp theo pháp luật của Công ty: Ông Lê T1 - Chủ tịch Hội đồng quản trị.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội huyện B, tỉnh Long An; Địa chỉ: Số B đường L, thị trấn B, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: Bà Lê Thị Huỳnh H1 - Chức vụ: Giám đốc.
(Đại diện nguyên đơn, đại diện người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có Đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện ngày 14/7/2024, trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện hợp pháp theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Đoàn Hữu H trình bày:
Ông Huỳnh Tấn T là người lao động tại Công ty Cổ phần L theo Hợp đồng lao động không số năm 2019, loại Hợp đồng lao động không xác định thời hạn, mức lương chính 4.000.000 đồng/tháng. Công ty không đóng bảo hiểm xã hội cho ông T từ tháng 5/2021 đến tháng 01/2023 với số tiền là 25.011.442 đồng.
Nay ông T khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần L phải đóng tiền BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN vào tài khoản thu của cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện B để chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông Huỳnh Tấn T với tổng cộng số tiền là 25.011.442 đồng, trong đó số tiền chậm đóng là 21.021.758 đồng và tiền lãi chậm đóng là 3.989.684 đồng. Yêu cầu Công ty Cổ phần L còn phải chịu tiền lãi trên số tiền bảo hiểm xã hội chậm đóng theo quy định pháp luật về Bảo hiểm xã hội.
Ngoài ra, nguyên đơn không còn ý kiến hay yêu cầu nào khác. Ngoài những chứng cứ đã cung cấp cho Tòa án thì nguyên đơn không còn chứng cứ nào khác để cung cấp và không yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Đồng thời, xác định không yêu cầu Tòa án triệu tập ai hoặc đưa thêm ai khác vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Bị đơn Công ty Cổ phần L đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội huyện B do bà Lê Thị Huỳnh H1 trình bày: Bảo hiểm xã hội huyện B đã cung cấp số liệu Bảo hiểm xã hội của Công ty L và cung cấp thông tin tạm tính số tiền phải đóng xác nhận chốt sổ bảo hiểm xã hội của đơn vị đến thời điểm hiện tại theo công văn số 274/CV-BHXH ngày 17/7/2024. Bảo hiểm xã hội B không có yêu cầu giải quyết vấn đề gì trong vụ án này. Đối với yêu cầu của nguyên đơn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của Pháp luật. Bảo hiểm xã hội huyện B xin được vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết của Tòa án các cấp.
Tài liệu chứng cứ nguyên đơn cung cấp cho Tòa án gồm: Hợp đồng lao động; Số Bảo hiểm xã hội; Biên bản làm việc, căn cước công dân của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An tham gia phiên tòa sơ thẩm phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Bến Lức thụ lý đơn khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” là đúng thẩm quyền.
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo pháp luật tố tụng và những người tham gia tố tụng trong vụ án đã chấp hành pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung: Xét thấy, theo quy định khoản 1 Điều 168 Bộ luật Lao động, Điều 2 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội, người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; hằng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm trích tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội. Việc Công ty L không thực hiện đóng bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn là trái quy định của pháp luật nên cần phải buộc Công ty thực hiện đóng bảo hiểm xã hội với số tiền gốc theo bảng tạm tính của Bảo hiểm xã hội huyện B là 25.011.442 đồng. Do Công ty L chậm đóng BHXH nên phải chịu lãi chậm đóng theo quy định của Bảo hiểm xã hội huyện B, cụ thể theo bảng tạm tính đến tháng 7/2024 thì số lãi chậm đóng mà Công ty phải chịu là 3.989.684 đồng. Như vậy, Công ty L phải thực hiện đóng tiền BHXH còn nợ cho nguyên đơn là 25.011.442 đồng, trong đó số tiền chậm đóng là 21.021.758 đồng và tiền lãi chậm đóng là 3.989.684 đồng. Công ty L còn phải chịu lãi trên số tiền bảo hiểm chậm đóng theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế.
Từ những nhận định trên, Căn cứ các Điều 6, 13, 20, 21, 168, 188 của Bộ luật Lao động; Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều 21, Điều 85, Điều 86, khoản 2 Điều 89, Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền: Nguyên đơn tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bị đơn có trụ sở chính tại xã A, huyện B, tỉnh Long An. Căn cứ điểm d, khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp về bảo hiểm xã hội” thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
[2] Về việc xác định tư cách đương sự: Ông Huỳnh Tấn T khởi kiện Công ty L. Căn cứ Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 xác định ông Huỳnh Tấn T là nguyên đơn, Công ty L là bị đơn và Bảo hiểm xã hội huyện B, tỉnh Long An là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[3] Về việc vắng mặt đương sự: Ông Đoàn Hữu H, Bảo hiểm xã hội huyện B vắng mặt và có Đơn xin vắng mặt. Bị đơn Công ty L đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định.
Về nội dung tranh chấp:
[4] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội để chốt sổ bảo hiểm cho nguyên đơn. Xét thấy, tại văn bản số 274/CV-BHXH ngày 17/7/2024 của Bảo hiểm xã hội huyện B xác định Công ty Cổ phần L có đăng ký tham gia BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN cho ông Huỳnh Tấn T tại Bảo hiểm xã hội huyện B với Mã số BHXH 802228XXXX và còn nợ số tiền chậm đóng tạm tính đến tháng 7/2024 là 25.011.442 đồng, trong đó số tiền chậm đóng là 21.021.758 đồng và tiền lãi chậm đóng là 3.989.684 đồng. Công ty Cổ phần L chưa thực hiện lập hồ sơ bảo giảm, ngưng đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN và chốt trả sổ cho ông T vì lý do Công ty đang nợ tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN. Như vậy, có đủ căn cứ xác định giữa ông Huỳnh Tấn T và Công ty Cổ phần L có quan hệ lao động.
[5]. Theo quy định khoản 1 Điều 168 Bộ luật Lao động, Điều 2 và khoản 2 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội “người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc; hằng tháng người sử dụng lao động có trách nhiệm trích tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Hiện nay, nguyên đơn ông Huỳnh Tấn T đã không còn làm việc tại Công ty từ tháng 01/2023 cho đến nay. Căn cứ khoản 2 Điều 48 Bộ luật Lao động, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm: “Hoàn thành thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và trả lại cùng với bản chính giấy tờ khác nếu người sử dụng lao động đã giữ của người lao động”. Như vậy, có đủ căn cứ buộc Công ty Cổ phần L phải đóng bảo hiểm xã hội cho ông Huỳnh Tấn T tổng cộng số tiền là 25.011.442 đồng, trong đó số tiền chậm đóng là 21.021.758 đồng, tiền lãi chậm đóng là 3.989.684 đồng và tiền lãi chậm đóng phát sinh theo quy định pháp luật bảo hiểm xã hội để chốt sổ Bảo hiểm xã hội Mã số BHXH 802228XXXX cho ông Huỳnh Tấn T, là phù hợp với lời phát biểu của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Lức tham gia phiên tòa.
[6]. Về án phí lao động sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc bị đơn Công ty Cổ phần L phải chịu án phí theo Điều 26 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên đơn không phải chịu án phí do được miễn nộp tiền án phí theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ các Điều 6, 20, 48, 168 và Điều 188 Bộ luật Lao động; Căn cứ các Điều 17, 18, 19, 21, 85, 86 và khoản 2 Điều 89 Luật Bảo hiểm xã hội;
Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Tấn T đối với bị đơn Công ty Cổ phần L về việc tranh chấp “Về bảo hiểm xã hội”.
Buộc Công ty Cổ phần L có nghĩa vụ nộp tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp vào tài khoản thu của cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện B để chốt sổ bảo hiểm xã hội cho ông Huỳnh Tấn T số tiền là 25.011.442 đồng, trong đó số tiền chậm đóng là 21.021.758 đồng và tiền lãi chậm đóng là 3.989.684 đồng.
Công ty Cổ phần L còn phải chịu tiền lãi trên số tiền bảo hiểm xã hội chậm đóng theo quy định Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế.
2. Về án phí lao động sơ thẩm: Buộc Công ty Cổ phần L phải chịu 300.000 đồng án phí lao động sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo: Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
“Trường hợp bản án hoặc quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7, Điều 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp bảo hiểm xã hội số 75/2024/LĐ-ST
Số hiệu: | 75/2024/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bến Lức - Long An |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 12/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về